QĐND - Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Giám đốc Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác... những chức danh đó dễ mang đến cảm giác xa cách, nếu tôi không có được nhiều cơ hội gặp gỡ và tìm hiểu về ông. Vâng, ông - bác sĩ Lê Năm - tạo cho tôi cảm giác rằng, ông đã chạm đến tận cùng của sự giản dị, gần gũi. Nếu trong công tác quản lý và nghiên cứu khoa học, ông năng nổ và cương quyết bao nhiêu, thì ngoài cuộc sống thường nhật ông ôn hòa và vị tha dường ấy...

Thiếu tướng, GS, TS Lê Năm. Ảnh: Hồng Lộc

 

Chuyện cách đây đã vài năm. Hôm đó tôi đến nhà ông với tư cách "khách ở quê ra". Bấy giờ đã hơn 21 giờ và ông cũng vừa về từ cơ quan. Bà hâm nóng lại thức ăn bữa tối cho ông. Vị tướng ấy giữ thói quen về nhà ăn cơm vợ nấu. Ông bảo: Ngày trước thì rong ruổi bôn ba, bây giờ thì triền miên đi sớm về muộn, bà một mình nuôi dạy con cái, lo việc nội, ngoại... nên nay chăm chỉ "cơm nhà" như là một cách để ông đáp lại những hy sinh thầm lặng của bà... Chứng kiến và nghe nhiều về ông, nhưng lần nào cách hành xử của ông cũng khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều...

Lần đó cũng vậy, ông đang ngồi ăn tối cùng bà thì có tiếng gõ rất to và tiếng gọi tên ông gấp gáp ngoài cửa. Tôi nhìn ông ái ngại, bữa cơm muộn này không đáng để bị phá đi chút nào. Ông nhờ tôi ra mở cửa. Vị khách ồn ào đó là một nông dân đen đúa, mặt hốc hác hốt hoảng. Bác ấy nói, như gào: Bác sĩ ơi! Cứu chúng tôi với! Tôi đang chưa biết phải làm gì thì ông đã đi ra: Bác có chuyện gì vậy? Tôi cũng vừa trở về từ bệnh viện đây... Bác ấy nghẹn lại, rồi trong những câu nói đứt quãng, chúng tôi lờ mờ hiểu ra là người nhà bác ấy đang nằm Khoa Hồi sức cấp cứu của Viện Bỏng, rất nguy kịch. Có người đã chỉ cho bác ấy nhà của bác sĩ Viện trưởng Lê Năm... Tôi thấy ông khoác vội áo khoác, đeo kính trắng, xách cặp và đi ra dắt xe máy, vì lái xe của ông đã về nghỉ sau khi đưa ông về nhà. Bà chạy theo kéo áo: Gì thì ông cũng phải ăn nốt bữa cơm đã chứ? Ông nói gì đó với bà rồi vội vã nổ máy đi luôn. Căn nhà lại yên ắng đến lạ lùng. Bà thở dài rồi lặng lẽ dọn dẹp...

Lâu lắm rồi tôi mới lại có dịp đến nhà ông. Lần này cũng sau giờ cơm tối nhưng vào một ngày chủ nhật. Thấy phòng làm việc của ông sáng đèn, tôi không muốn làm phiền nên chỉ ngồi dưới nhà nói chuyện với bà. Một lát, thấy ông đi xuống, vừa đi vừa lẩm nhẩm nói gì đó một mình, tôi không nghe rõ. Tôi đứng dậy lễ phép thay lời chào vì sợ lại phá mất điều gì đó của ông. Như đọc được sự ngạc nhiên tò mò của tôi, ông lên tiếng: Chào cháu! bác đang tranh thủ học tiếng Anh, thì ra cái món này không dễ chút nào...

Ông gấp mảnh giấy cho vào túi áo, giải thích: Bác phải tranh thủ học từ mới cả tập thể dục nữa... Rồi ông dừng việc học ngoại ngữ “tranh thủ” lại để ngồi tiếp tôi. Bên ly nước chè xanh bốc khói là đặc sản xứ Nghệ Tĩnh mà ông "duy trì" suốt mấy chục năm ở Thủ đô, tôi lại may mắn được hầu chuyện ông.. Tôi nhắc về bữa cơm tối cách đây 2 năm, với câu hỏi về kết quả sức khỏe của vị bệnh nhân hôm ấy. Ông im lặng một lúc, như để nhớ lại rồi nói: Đó là một ca bỏng điện rất nguy kịch, cũng may là chưa quá muộn. Với người thầy thuốc, việc ưu tiên nhất là chữa bệnh cứu người. Tôi cũng là con người, tôi cũng đói, cũng mệt, nhưng khi họ tìm đến mình như thế, cũng có nghĩa là tình hình đang rất xấu, có lẽ trong hoàn cảnh đó vị bác sĩ nào cũng sẽ có hành động như thế thôi!

Câu chuyện về một vị tướng đang tại ngũ, một giáo sư khoa học đầu ngành, một nhà quản lý danh tiếng mà dung dị đến thế, càng khiến tôi tò mò muốn biết nhiều hơn về ông...

Ông sinh ra ở Hà Tĩnh, tuổi thơ lẫn trong vị mằn mặn của đất, trong cái khô khốc bỏng rát của gió Lào và những nhọc nhằn cơ cực của bao thế hệ. Có lẽ ai được sinh ra và chứng kiến cuộc sống nơi miền đất ấy, mới thấu hết được cội nguồn sâu xa của truyền thống hiếu học, cần cù chịu khó từ trong máu thịt. Cậu bé Lê Năm thuở ấy đã ấp ủ trong mình ước mơ sẽ trở thành một thầy thuốc để về quê chữa bệnh cho các bà, các o, các chú, các bác và các em. Thế nhưng, trong kỳ thi đại học đầu tiên của miền Bắc năm 1970, hồ sơ đăng ký vào Trường Y của ông bị gạt đi và ông đã có hai năm làm sinh viên Trường Thương nghiệp, nay là Trường Đại học Thương mại. Chiến tranh tiếp tục leo thang, chàng sinh viên Lê Năm cùng bạn bè lên đường nhập ngũ và môi trường quân đội đã giúp ông thực hiện lại ước mơ dang dở của mình. Năm 1973, anh lính trẻ Lê Năm được về Trường Đại học Quân y, nay là Học viện Quân y. Nhắc lại "bước ngoặt" ấy, ông bồi hồi kể: Lúc đó tôi thực sự rất hạnh phúc. Tôi lao vào học ngày học đêm, chỉ mong sớm được ra trường và trở thành một người bác sĩ...

Và nghề y lại dẫn ông đến một "bước ngoặt" nữa, khi ông từ Bệnh viện Quân khu 4 trở lại Học viện Quân y vào năm 1982 để làm luận án tiến sĩ. Đây cũng chính là một bước ngoặt lớn nhất trong sự nghiệp thầy thuốc của ông. Lúc đầu, ông đến với chuyên khoa bỏng chỉ như là việc chấp hành mệnh lệnh. Sau đó, những vết thương, những tai nạn do bỏng gây ra đã khiến ông ngày càng gắn bó với công việc và miệt mài học tập để tìm những hướng đi mới cho ngành bỏng ở Việt Nam lúc bấy giờ còn rất non trẻ. Năm 1987, ông được cử đi thực tập ở Liên Xô. Đây là cơ hội để ông tập trung nghiên cứu và tích lũy một cách có hệ thống những kiến thức của ngành. Sự nỗ lực hết mình của ông đã có kết quả, ông được phép làm và bảo vệ luận án tiến sĩ trong thời gian thực tập sinh...

13 năm qua, từ một Khoa Bỏng khiêm tốn thuộc Học viện Quân y, ngành bỏng đã tách ra và dần dần trở thành Viện Bỏng Quốc gia với cơ ngơi hoành tráng và có tầm ảnh hưởng lớn ở trong nước và nước ngoài như bây giờ. Thiếu tướng Lê Năm là "tay lái chính" cùng các đồng nghiệp chèo chống đưa con thuyền Viện Bỏng ngày càng trưởng thành vẫn đang không ngừng phát triển. Từ năm 2000, khi nhận trọng trách làm Giám đốc Viện Bỏng, ông rất chú trọng cử các bác sĩ đi thực tế ở các bệnh viện trong cả nước, để trực tiếp học hỏi kiến thức và tích lũy kinh nghiệm ở những nơi tốt nhất. Năm 2001, khi tham dự Hội thảo Bỏng quốc tế tại Pháp trở về, ông đã thốt lên với các đồng nghiệp: Qua hội nghị này, tôi đã tìm thấy chân trời của ngành bỏng Việt Nam!

Cũng từ đó, Giáo sư, Giám đốc Lê Năm không ngừng vận động, đưa khoa học kỹ thuật hiện đại áp dụng vào Viện Bỏng; đặc biệt chú trọng kết hợp Đông-Tây y nhằm phục vụ tốt nhất cho việc chữa trị, khắc phục di chứng bỏng cho bệnh nhân. Hàng loạt kỹ thuật mới đã được triển khai tại Viện Bỏng, như: Kỹ thuật siêu lọc máu, kỹ thuật ô-xy cao áp, kỹ thuật ghép mắt da lưới với độ co giãn lớn, kỹ thuật ghép da kiểu mảnh siêu nhỏ, kỹ thuật giãn vạt da, kỹ thuật vi phẫu… Và rồi kỳ tích đã xuất hiện, nhiều bệnh nhân bỏng sâu, diện tích rộng đã được cứu sống. Có những bệnh nhân có diện tích bỏng sâu đến 78% và diện tích bỏng nông đến 90% đã được chữa khỏi hoàn toàn, tỷ lệ tử vong đã giảm xuống còn trên dưới 1%. Viện Bỏng của ông trở thành một địa chỉ tin cậy của bệnh nhân bỏng khắp cả nước, như một cánh chim đầu đàn của ngành bỏng Việt Nam... Ông tâm sự: Thực ra trong cuộc đời làm khoa học, làm quản lý của mình, tự thấy giỏi thì tôi chưa giỏi, nhưng cái tâm với đồng nghiệp, với anh em, với bệnh nhân thì tôi luôn sẵn sàng. Trong công tác quản lý, tôi đã tận dụng được đội ngũ trẻ, để vừa động viên, vừa đào tạo họ để có được một đội ngũ y, bác sĩ có Tâm và có Tầm về chuyên ngành bỏng ở Việt Nam.

Bỏng là một ngành phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ thuật và những người thầy thuốc chữa bỏng rất vất vả, căng thẳng vì bệnh nhân thường là những ca cấp cứu nặng, nguy hiểm. Hơn ai hết, giáo sư Lê Năm hiểu được những vất vả của nhân viên mình. Để họ yên tâm công tác, Viện đã ngược xuôi lo thủ tục để triển khai dự án về nhà ở cho cán bộ, nhân viên; phấn đấu từ những cô công vụ, cô điều dưỡng đến các bác sĩ của Viện đều có được một căn hộ gần cơ quan để ổn định gia đình. Đó chỉ là một trong rất nhiều ví dụ về cái Tâm và cái Tầm của ông mà anh em trong cơ quan vẫn thường kể, mỗi khi "khoe" về vị Giám đốc đáng kính của mình.

Được biết, năm 2013 này, ông và Viện Bỏng vừa hoàn thành công trình Khu tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tại Hương Sơn-Hà Tĩnh. Công trình không chỉ mang giá trị văn hóa vật thể, mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần to lớn, có ý nghĩa giáo dục đối với hậu thế nói chung và những người làm nghề thuốc nói riêng. Hình ảnh tượng đài vị Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đứng trên đỉnh núi Minh Tử lộng gió, như nhắc nhở con cháu, các thế hệ học trò của ngài về sự học, về y đức và lương tâm của người thầy thuốc. Giáo sư Lê Năm cho biết: Tôi muốn tất cả chúng ta cùng nhìn vào đó, để luôn khắc ghi những lời dạy của tiền nhân: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên lo tính mạng con người; phải lo cái lo của con người, vui cái vui của con người; chỉ lấy việc chữa bệnh cứu người làm nhiệm vụ của mình, không được mưu lợi, kể công. Viện Bỏng Quốc gia tự hào được mang tên của vị danh y đáng kính Lê Hữu Trác, càng phải ghi nhớ và thực hành thật xuất sắc lời dạy của Ngài...

Thêm một tin vui nữa: Trong 3 ngày đầu tháng 4-2013 này, Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác được các đồng nghiệp quốc tế tin cậy chọn đăng cai Hội nghị Bỏng châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 9 với chủ đề: Những thách thức trong điều trị bỏng toàn diện. Được biết, không chỉ riêng khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà đồng nghiệp khắp các châu lục đều có công trình khoa học gửi về tham gia hội thảo. Giám đốc Lê Năm phải khẩn trương nghiên cứu và chọn lọc các tài liệu này để giới thiệu trong hội nghị. Ông chia sẻ: Tôi rất vui vì Viện được "chọn mặt gửi vàng", nhưng trước mắt còn nhiều việc phải làm cho ngành bỏng nước nhà, để đạt hiệu quả cao nhất trong điều trị bỏng và mức thấp nhất những di chứng mà bệnh nhân phải gánh chịu...

Tôi chia tay ông và suy nghĩ mãi về những tâm sự, chia sẻ như một nỗi niềm luôn canh cánh trong vị giáo sư đáng kính ấy: Khoa học đã đạt được những thành tựu nhất định để y học có thể giúp con người vượt qua, chiến thắng những nỗi đau của bệnh tật. Nhưng gắn với ngành bỏng tôi biết, bỏng rất đau đớn và hậu quả của nó thật sự đáng sợ. Tôi mong mỗi chúng ta đều có ý thức bảo vệ, tự bảo vệ để không bao giờ phải biết đến nó...

Bút ký của LỘC HÀ VÀ NGHI XUÂN