Trên các cương vị đó, ông đã trực tiếp tham gia chỉ huy chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Bác Hồ và quân đội giao phó. Trong hồi ký “Thượng tướng Phùng Thế Tài-Trọn một đời đi theo Bác” (NXB QĐND, 2014), ông nhắc đến nhiều kỷ niệm “bây giờ mới kể” về cuộc đời chiến đấu của mình, gắn liền với những chiến công chói lọi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Những trận đánh, chiến dịch mà ông trực tiếp chỉ huy, tham gia chỉ huy như trận đánh thắng trận đầu ngày 5-8-1964 của bộ đội ra-đa và trận đánh trên không đầu tiên, sự ra đời và chiến công của bộ đội tên lửa, những chiến công của bộ đội không quân và đặc biệt là kỷ niệm về Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” năm 1972... đã để lại cho thế hệ mai sau những bài học quý giá về tinh thần chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; về dự báo, nắm chắc tình hình địch; sâu sát, nắm chắc bộ đội; linh hoạt, sáng tạo trong chỉ huy chiến đấu.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết về Thượng tướng Phùng Thế Tài: “Thượng tướng Phùng Thế Tài là một đảng viên rất mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đồng chí là một người được rèn luyện, trưởng thành từ chiến sĩ trở nên một vị tướng có tài của Quân đội ta... Chiến công và thành tích của đồng chí trong quá trình cách mạng và kháng chiến đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Đối với tôi, Thượng tướng Phùng Thế Tài là người đồng chí thân thiết. Tôi rất tin tưởng mỗi lần trao nhiệm vụ cho đồng chí”.
Bên cạnh tài năng quân sự, ông còn bộc lộ nhiều tài năng, sáng kiến trong các lĩnh vực khác được kể lại trong hồi ký “Thượng tướng Phùng Thế Tài-Trọn một đời đi theo Bác”...
Tài đối ngoại
Vốn là một vị tướng có tính cách bộc trực, thậm chí nóng nảy, ít người biết Phùng Thế Tài là vị tướng có tài đối ngoại. Năm 1964, Liên Xô ủng hộ Việt Nam một lượng lớn khí tài tên lửa, hàng bị ách lại ở cửa khẩu Xô-Trung. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giao cho Tư lệnh Phùng Thế Tài đi giải quyết việc này. Từ Việt Nam, Phùng Thế Tài đã sang thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc) tìm gặp người bạn là Ngô Pháp Hiền, lúc này là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Tư lệnh Không quân thuộc Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Ngô Pháp Hiền và Phùng Thế Tài vốn là những người bạn cùng học Trường Quân sự Bắc Kinh năm 1956. Phùng Thế Tài đã đến thẳng nhà riêng của bạn, trò chuyện và trình bày vấn đề. Chẳng biết ông đã thuyết phục như thế nào, nhưng Tư lệnh Ngô Pháp Hiền lập tức dùng điện thoại tại nhà riêng, điện cho các cửa khẩu đang “găm” hàng tài trợ của Việt Nam. Thế là tên lửa Liên Xô nhanh chóng di chuyển qua nước bạn Trung Quốc để về Việt Nam, tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc. Chính từ sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, chỉ trong hai năm, số trung đoàn tên lửa của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng, kịp góp công ngay từ chiến thắng trận đầu tháng 8-1964.
Cũng trong năm 1964, nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành của Triều Tiên thăm Việt Nam. Triều Tiên là một trong số các quốc gia sớm công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Triều Tiên ủng hộ Việt Nam vô tư, chí nghĩa, chí tình với tình cảm quốc tế trong sáng. Đặc biệt, bạn còn cử rất nhiều phi đội phi công sang trực tiếp chiến đấu bảo vệ miền Bắc. Khi bàn đến việc chiêu đãi đồng chí Kim Nhật Thành, Bác Hồ nói: “Nên giao việc này cho chú Tài phụ trách”. Mặc dù hơi ngỡ ngàng khi được Bác tin tưởng giao nhiệm vụ tổ chức tiệc chiêu đãi nguyên thủ quốc gia bạn, nhưng đồng chí Phùng Thế Tài lập tức tìm hiểu cách thức tiến hành. Qua nghiên cứu, biết đồng chí Kim Nhật Thành rất thích ăn thịt chó, ông đã đề xuất làm bữa cơm theo kiểu gia đình để chiêu đãi. Rồi ông mời chủ của hiệu thịt chó có tiếng nhất ở Hà Nội đến Nhà khách Bộ Quốc phòng trợ giúp. Món thịt chó được nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành hết sức tán thưởng. Ông còn mời người chủ hiệu thịt chó sang Triều Tiên để truyền đạt kỹ thuật nấu nướng cho các đầu bếp người Triều Tiên. Hôm đó, Bác Hồ đã khen ngợi đồng chí Phùng Thế Tài: “Chú giỏi lắm!”.
Tháng 2-1973, sau Hiệp định Paris, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger đã có chuyến thăm lịch sử đến Hà Nội. Đồng chí Phùng Thế Tài lại được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội tin tưởng giao nhiệm vụ bảo đảm an toàn, ăn ở, đi lại cho phái đoàn của Kissinger. Khi dẫn Kissinger đi thăm một vòng sân bay Nội Bài, đồng chí Phùng Thế Tài đã khiến Ngoại trưởng Hoa Kỳ phải “im thin thít” khi giới thiệu: “Sân bay này là điểm đầu tiên đêm 18-12-1972 các ông cho B-52 rải thảm. Các ông muốn cho tất cả trở về thời kỳ đồ đá, thế mà bây giờ nó vẫn đàng hoàng đón tiếp máy bay loại lớn của các ông”.
Sau đó, trong bữa ăn giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Kissinger, đồng chí Phùng Thế Tài đã dặn nhà bếp nấu món thịt ếch nấu chuối, lá lốt. Kissinger rất thích món này khiến đồng chí Lê Đức Thọ rất ngạc nhiên về “tài” đoán khẩu vị của đồng chí Phùng Thế Tài. Thực ra, khi ngồi cùng xe với Kissinger từ Nội Bài về Nhà khách Quân đội ở phố Cửa Đông, chính Kissinger đã bày tỏ với Phùng Thế Tài rằng, ông ta muốn ăn một bữa thịt ếch.
Tài dự báo
Ngày nay, thế giới đã biết đến “vụ tập kích Sơn Tây” nổi tiếng của biệt kích Mỹ vào trại giam phi công Mỹ ngày 21-11-1970. Nhưng ít người biết đến vai trò của Thượng tướng Phùng Thế Tài trong việc khiến biệt kích Mỹ “vồ hụt” trong vụ việc trên.
“Vụ tập kích Sơn Tây” được quân đội Mỹ chuẩn bị công phu, trực tiếp được Tổng thống Nixon thông qua tại Nhà Trắng. Sau khi nắm được thông tin có khoảng 70 phi công Mỹ đang bị giam giữ tại một nhà tù trên đất Sơn Tây (Việt Nam), quân đội Mỹ đã tổ chức trinh sát không gian bằng các loại máy bay và thiết bị kỹ thuật hiện đại nhất trong nhiều tháng trời. Những sĩ quan, binh lính xuất sắc nhất của quân đội Mỹ được triệu tập trên tinh thần tình nguyện cảm tử, tổ chức huấn luyện nhiều tháng trời để chuẩn bị tập kích. Tại buổi thông qua kế hoạch tập kích tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Nixon rất tin tưởng vào thắng lợi và dự kiến sẽ mời tất cả phi công được giải cứu đến Nhà Trắng liên hoan trong ngày lễ Tạ ơn...
Trận tập kích diễn ra từ 2 giờ 3 phút đến 3 giờ 30 phút ngày 21-11-1970. Mặc dù quân đội Mỹ thành công trong việc dùng trực thăng đưa lực lượng biệt kích đổ bộ vào trại giam nhưng trại giam lúc này chỉ còn là những dãy nhà trống. Mục đích giải cứu các phi công Mỹ bất thành, cuộc tập kích thất bại hoàn toàn.
Sau này, nhiều người đồn đoán là ta nắm được tin tức tình báo nên đã di chuyển các tù binh phi công Mỹ đi chỗ khác. Trên thực tế không phải như vậy, bởi nếu chúng ta nắm được tin tức tình báo thì lực lượng biệt kích của Mỹ chắc chắn đã bị tóm gọn. Quyết định chuyển tù binh Mỹ đi nơi khác được thực hiện theo lệnh của đồng chí Phùng Thế Tài từ 6 tháng trước khi vụ tập kích xảy ra.
Vì đâu mà tướng Phùng Thế Tài lại dự đoán được cuộc tập kích? Theo lời kể của ông, thực ra ông không đoán ra được ý đồ của Mỹ nhưng với ý thức cảnh giác cao độ, ông chính là người đã ra lệnh di chuyển các tù binh phi công Mỹ đi nơi khác. Chuyện xảy ra bắt đầu từ ngày 20-12-1969, Bộ Ngoại giao ta có đề nghị Bộ Quốc phòng cho phép một cố đạo và hai ca sĩ người Mỹ đến thăm và biểu diễn cho tù binh ở trại giam Sơn Tây xem vào dịp Noel. Đúng đêm Noel năm 1969, đồng chí Phùng Thế Tài lệnh cho lực lượng bảo vệ an ninh phải theo dõi sát sao hành động của viên cố đạo và hai ca sĩ người Mỹ. Quả nhiên, khi “lọt” vào trại giam, viên cố đạo cố tỏ ra bình thản nhưng hành vi đi khắp các phòng giam, ngó nghiêng quan sát của ông ta đã được báo lại với tướng Phùng Thế Tài. Sau đó, tháng 5-1970, chính ông đã ra lệnh di chuyển tù binh và theo dõi việc di chuyển tù binh từ Sơn Tây về trại giam Ngã Tư Sở. Cuộc di chuyển được giữ bí mật tuyệt đối với những phương án bảo vệ chặt chẽ. Vì vậy, suốt 6 tháng sau đó, cho đến khi vụ tập kích xảy ra, Mỹ vẫn “đinh ninh” là 70 phi công của họ vẫn đang ở nguyên chỗ cũ.
Chuyên án tuyệt mật PY-27
Chuyên án tuyệt mật PY-27 là chuyên án kéo dài suốt 8 năm trời do công an phối hợp với Quân đội ta tổ chức, đánh bại ý đồ dùng biệt kích phá hoại hậu phương lớn miền Bắc của Mỹ-ngụy. CIA đã tuyển chọn kỹ càng những người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954-1955, huấn luyện và tổ chức thành từng toán, mang biệt danh Caster, bí mật nhảy dù xuống miền Bắc để phá hoại.
Toán biệt kích đầu tiên gồm 4 tên, nhảy dù xuống châu Phù Yên (Tây Bắc) ngày 27-5-1961. Mạng lưới an ninh nhân dân của ta đã tóm gọn nhóm này. Trong đó, tên Lò Văn Piềng, phụ trách điện đài của toán biệt kích được ta cảm hóa, dùng chính tên này để liên lạc với trung tâm biệt kích Long Thành của Mỹ-ngụy nhằm thực hiện một kế hoạch phản gián có tầm chiến lược. Chuyên án tuyệt mật PY-27 được báo cáo Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và đích thân đồng chí Lê Duẩn giao nhiệm vụ cho Bộ Công an, Bộ Quốc phòng phối hợp triển khai.
Với cương vị Tư lệnh Bộ tư lệnh Phòng không, về sau là Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, đồng chí Phùng Thế Tài đã tham gia ban chỉ huy chuyên án, sử dụng Lò Văn Piềng điều máy bay địch ra các địa điểm ở miền Bắc để bộ đội pháo cao xạ phục kích tiêu diệt. Những trận nhỏ với quy mô vài ba đại đội pháo cao xạ thì đồng chí Phùng Thế Tài trực tiếp chỉ đạo. Những trận phải điều động vài ba trung đoàn pháo cao xạ trở lên thì ông báo cáo trực tiếp với Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng. Như trận Mẫu Đức (Hòa Bình) ngày 10-11-1963, ta huy động 3 trung đoàn pháo cao xạ để phục kích diệt địch. Trận Mai Siu (Bắc Giang) tháng 3-1964, ta huy động tới 5 trung đoàn phòng không. Tháng 2-1964, Tư lệnh Phùng Thế Tài còn điều động cả không quân tham gia chuyên án. Đó chính là trận đánh trên không đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam. Hai phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước đã lái máy T28 bắn rơi tại chỗ một chiếc C123 của Mỹ-ngụy đi thả biệt kích ở biên giới Việt-Lào.
Điều kỳ diệu là chuyên án PY-27 giữ được bí mật tuyệt đối. Cuộc “ú tim” giữa ta và địch thông qua toán này kéo dài suốt 8 năm trời. Sau này, theo Hiệp định Paris, toàn bộ toán biệt kích Caster được trao trả cho phía Mỹ. Lò Văn Piềng được ta đồng ý cho sang định cư ở Mỹ.
HÀ THANH (*)
(*) Lược thuật theo hồi ký “Thượng tướng Phùng Thế Tài-Trọn một đời đi theo Bác”, NXB Quân đội nhân dân, 2014.