Thường thì ngày tựu trường là dịp rộn ràng, háo hức, nhưng năm ấy, trong chúng tôi lại trĩu nặng một tâm trạng khác: Băn khoăn, thậm chí hoang mang. Không phải vì đang là cán bộ chỉ huy, nay lại trở thành học viên mà bởi những gì đang diễn ra trên thế giới. Chúng tôi đến trường học về Chủ nghĩa Mác-Lênin, về xây dựng Đảng-linh hồn và kim chỉ nam của chủ nghĩa xã hội (CNXH) thì đúng lúc CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Một “cơn địa chấn chính trị” toàn cầu, làm rung chuyển niềm tin của những người cộng sản chân chính trên thế giới.
    |
 |
Bồi dưỡng kỹ năng số cho chiến sĩ Hệ 3, Học viện Chính trị. Ảnh: HẢI TRÌNH
|
Không chỉ học viên mà nhiều cán bộ, giảng viên Học viện khi ấy cũng ít nhiều mang tâm trạng nặng nề. Nhưng họ tĩnh tâm hơn và chính sự bình tĩnh, kiên định ấy lan tỏa sang học viên. “Liều thuốc tĩnh tâm” hiệu nghiệm nhất chính là bài phát biểu khai giảng năm học của Trung tướng, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Xuân Trường, Giám đốc Học viện: “Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và Đảng Cộng sản Liên Xô không quá bất ngờ với tôi. Tôi chỉ bất ngờ là nó diễn ra quá nhanh. Nhưng xin khẳng định: Chủ nghĩa Mác-Lênin không sai, không lỗi thời. Đảng ta, Quân đội ta kiên định với Chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành với con đường đi lên CNXH mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn...”.
Ông nói với giọng điềm tĩnh nhưng dứt khoát, khơi gợi niềm tin từ những trang sử kiên cường của cách mạng Việt Nam. Khi kết thúc bài phát biểu, nụ cười rạng rỡ của ông như lan tỏa một luồng sinh khí mới trong giảng đường.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Tổng cục Chính trị, Ban Giám đốc Học viện Chính trị-Quân sự đã phát động một “chiến dịch” cải cách giáo dục và nghiên cứu khoa học sâu rộng. Các nhà giáo, nhà nghiên cứu-những “bác sĩ tư tưởng”-bắt tay vào việc “bắt bệnh”, nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu. Kết quả chỉ ra rõ: Đó là hậu quả của việc xa rời Chủ nghĩa Mác-Lênin, coi nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ, nóng vội trong cải tổ, dung túng đa nguyên, đa đảng và đặc biệt là phi chính trị hóa Quân đội. Trong khi đó, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những sai lầm ấy để thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình”. Các kết quả nghiên cứu không “để trong ngăn kéo” mà được cập nhật ngay vào bài giảng, lan tỏa đến từng lớp học, củng cố thêm niềm tin và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ giảng viên, học viên.
Cùng với đổi mới nội dung, Học viện còn đổi mới phương pháp giảng dạy, từ “truyền đạt” sang “khơi gợi”, tăng cường thảo luận, trao đổi, giúp học viên rèn tư duy độc lập và phản biện. Trong một buổi thảo luận, Đại úy Trần Quang Phương, Tổ trưởng Tổ 1, Lớp K29A, Hệ Lục quân (nay là Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội) nêu quan niệm sâu sắc: “Chính trị là phải dùng những điều chân chính thì mới trị vì được thiên hạ”. Một cách “bẻ chữ” thú vị mà đầy triết lý. Anh còn dặn đồng đội: “Cán bộ chính trị khi nói và viết phải tránh võ đoán, võ biền. Đừng để tái diễn chuyện "một cán bộ chính trị điều bảy quân nhân đi khiêng một con puri"!”.
Thượng úy Hoàng Quang Thuận, học viên Tổ 3, Lớp K29A (sau là Thiếu tướng, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Pháo binh), trong một cuộc thảo luận khác đã đề xuất khôi phục chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội-một kiến nghị sau này được thực hiện và chứng minh tính đúng đắn.
Còn tôi, khi bàn về “Điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản”, mạnh dạn đề nghị cần thay đổi cách diễn đạt cho uyển chuyển, phù hợp hơn với thực tiễn, nhằm giúp học viên dễ tiếp cận hơn với các khái niệm kinh tế-xã hội hiện đại.
Trong chương trình học, có những nội dung học chung giữa các hệ. Ở môn “Đường lối quân sự”, lớp tôi học cùng Lớp bổ túc K42. Nhiều lần, giảng viên, Đại tá, TS Đồng Xuân Quách hỏi vui: “Có phải không, nhà báo Hồ Quang Lợi?”; hoặc “Có phải không, tác giả "Vùng Vịnh-Thanh gươm chiến tranh đã rút ra khỏi vỏ?”. Dù chưa từng gặp, nhưng tôi đã quen thuộc tên anh Hồ Quang Lợi qua những bài bình luận quốc tế sắc sảo. Từ đó, tôi bắt đầu “học lỏm” cách viết báo, gửi bài cho các tờ báo ở Trung ương và thật bất ngờ, 17 bài của tôi được đăng. Tốt nghiệp Học viện, tôi được Báo Quân đội nhân dân nhận về làm phóng viên, một “giấc mơ có thật”.
Về Báo Quân đội nhân dân, tôi công tác tại Phòng Biên tập Công tác Đảng, công tác chính trị. Nhờ từng được Giám đốc Học viện Trần Xuân Trường quý mến, tôi nhiều lần được Trưởng phòng, Đại tá Nguyễn Quang Thống (sau là Thiếu tướng, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân) giao mang bài của Trung tướng Trần Xuân Trường đến nhà riêng để ông xem lại. Có lần, sau khi đọc bài biên tập, Trung tướng Trần Xuân Trường vui vẻ nói: “Tay "Tổng Thống" này biên tập như bác sĩ phẫu thuật cao tay. Còn đọc bài của hắn thì thấy sắc lẹm mà như đổ mật vào tai!”. Rồi ông nhỏ nhẹ dặn tôi: “Cậu phải học cách viết của hai tay Quang Thống và Quang Lợi”. Câu nói ấy, tôi vẫn ghi lòng.
Từ nhiều năm nay, Học viện Chính trị đã đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên của Báo Quân đội nhân dân. Sau mỗi khóa học, họ trở lại tòa soạn với tầm nhìn sâu hơn, bản lĩnh chính trị vững vàng hơn và tay nghề báo chí ngày càng trưởng thành.
Giữa Học viện Chính trị và Báo Quân đội nhân dân có một mối gắn bó đặc biệt, như hai cánh của một con chim, cùng góp phần lan tỏa ánh sáng của tư tưởng, củng cố niềm tin, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.
Dù đã nghỉ hưu, nhưng với tôi, mỗi lần trở lại Học viện vẫn thấy lòng mình được tiếp thêm năng lượng, như được tắm mình trong nguồn mạch của niềm tin chính trị-niềm tin được khơi dậy từ giảng đường thân yêu bên dòng sông Nhuệ. Và hơn bao giờ hết, tôi càng thấm thía lời dạy của cha ông: “Không thầy đố mày làm nên”./.