Hơn 20 năm được mùa liên tục
Lục Ngạn thời điểm này rộn ràng mùa vải. Người dân các xã đã bắt đầu thu hoạch vải từ đầu tháng 6. Xe container, xe tải cỡ vừa và nhỏ nườm nượp lưu thông trên Quốc lộ 31 rồi tập trung ở các điểm cân vải, nhất là đoạn qua Phố Kim, Phượng Sơn.
Ông Đinh Văn Phương, Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện cho biết, năm 2020, do điều kiện thời tiết không thuận lợi nên tỷ lệ ra hoa của cây vải chỉ đạt khoảng 65% diện tích. Tổng diện tích trồng vải toàn huyện được duy trì 15.290ha, trong đó, vải chín sớm khoảng 2.000ha, chiếm 13%, vải thiều chính vụ khoảng 13.290ha, chiếm 87%. Dự báo sản lượng đạt hơn 85.000 tấn, trong đó, vải chín sớm khoảng 18.000-20.000 tấn, vải chính vụ hơn 65.000 tấn.
Chúng tôi được ông Phương dẫn tới thăm vườn “lão nông” Hồng Văn An. Vườn vải của gia đình ông An nằm cách UBND huyện chừng 3km. “Ông An là một trong những nông dân tiêu biểu, trồng vải đã hơn 20 năm luôn được mùa”-ông Phương giới thiệu.
Ông Hồng Văn An năm nay 67 tuổi. Nhiều năm trước, cuộc sống của gia đình ông An rất khó khăn, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào làm ruộng và vườn tạp. 6 người con lần lượt ra đời khiến đời sống của cả nhà càng chật vật. Thấy mọi người trồng vải thiều, ông An cũng lân la tìm hiểu. Năm 1995, khi đã tìm hiểu khá tường tận về cây vải, ông bàn với vợ dọn dẹp vườn tạp, đi xin cây giống, chiết cành mang về trồng. Ban đầu chỉ là chục gốc vải xen canh với một số cây ăn quả, cây rau theo mùa. Sau vài tháng, 400 cây vải loại 1 được ông An trồng trên 2ha đất của gia đình. 3 năm sau, vườn vải bắt đầu cho những quả đầu tiên. Năm đó, gia đình ông thu hoạch được 4 tấn vải.
Đưa chúng tôi đi thăm vườn, ông An cho biết, yêu cầu quan trọng nhất của đất trồng vải là phải có tầng đất dày, thoát được nước. Chăm sóc cho cây phải là việc làm như mình tắm rửa, ăn uống mỗi ngày. Người trồng phải thường xuyên theo dõi, cắt bỏ những cành có chất lượng kém, cành khô, cành mang sâu bệnh và những cành mọc lộn xộn trong tán, những chùm hoa nhỏ, thưa, chùm hoa bị sâu bệnh…
Nhiều người trong xã đến thăm, học hỏi kinh nghiệm ông Hồng Văn An thường khá ngạc nhiên vì lúc nào đến cũng thấy ông “ngồi chơi”, chẳng thấy ông đi vườn, theo dõi, chăm sóc, tưới tắm cho cây bao giờ. Sự thật là ông An làm những công việc ấy từ 4 giờ sáng. Khi mọi người thức dậy thì ông cũng làm xong. “Tưới lúc đó vừa tốt cho cây, vừa dễ dàng vì điện mạnh”-ông giải thích.
Hằng năm, vào những thời điểm nhất định, ông An lại tiến hành 9 lần phun thuốc phòng trừ sâu bệnh cho cây vải. Mốc thời gian, liều lượng, tên thuốc đều được ông ghi lại cụ thể trong một cuốn sổ. Ông cũng ghi lại rành mạch những mốc thời gian bón phân: Đợt 1 bón vào tháng 2, đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 và đợt 4 vào tháng 11.
“Điều quan trọng là phải tỉa cành, kết hợp kỹ thuật khoanh gốc, bón phân chuồng và vôi cho cây vải. Và phải thực sự quan tâm đến cây”-ông chia sẻ bí quyết thành công.
Hiện 400 gốc vải ban đầu, vợ chồng ông An đã chia 200 gốc cho các con, ông bà chỉ giữ lại một nửa. Mùa vải năm nay theo ước tính của ông An, vườn của ông bà đạt khoảng 15-17 tấn vải, trung bình mỗi năm cho thu nhập 500-700 triệu đồng.
Trồng vải chất lượng cao
Nông nghiệp chất lượng cao là một xu hướng tất yếu và nghề trồng vải ở Lục Ngạn cũng không đứng ngoài xu thế ấy. Ông Đinh Văn Phương cho biết, hiện diện tích sản xuất theo quy trình VietGAP của huyện là 11.000ha, diện tích sản xuất đạt tiêu chuẩn GlobalGAP khoảng 100ha; duy trì diện tích 217,89ha vải thiều của 394 hộ sản xuất tại các xã Hồng Giang, Giáp Sơn, Tân Mộc, Biên Sơn, Tân Quang, Tân Sơn và Kiên Lao, được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cấp 18 mã số xuất khẩu vào thị trường này. Đồng thời, phía Trung Quốc đã cấp 36 mã số đối với toàn bộ vùng trồng vải thiều Lục Ngạn và 229 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở được công nhận đủ điều kiện đóng gói, xuất khẩu chính ngạch quả vải thiều tươi vào thị trường Trung Quốc.
Nắm bắt xu hướng đó, đã có rất nhiều hộ dân trồng vải trong huyện Lục Ngạn mong muốn được chuyển hướng sang trồng vải chất lượng cao, bắt đầu từ các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, sau đó hướng đến hữu cơ để sản phẩm đạt mức giá cao và xuất được sang nhiều thị trường. Đáp ứng nguyện vọng của các hộ dân, các ngành chức năng, cơ quan khuyến nông của địa phương đã hướng dẫn kỹ càng phương pháp trồng, chăm bón theo tiêu chuẩn cho bà con. Nhiều gia đình bước đầu đã gặt hái được những thành công. Hộ ông Trần Văn Hành (Giáp Sơn, Lục Ngạn) là một trong những gia đình như thế.
Gia đình ông Trần Văn Hành bắt đầu trồng vải thiều từ năm 1991. Ban đầu, ông chỉ biết trồng và chăm sóc theo kinh nghiệm của bản thân, hoàn toàn không biết kỹ thuật trồng và chăm bón sao cho quả vải đạt tiêu chuẩn chất lượng cao như hiện nay. Thu nhập từng năm vì thế cũng khá bấp bênh.
10 năm sau, với mục đích tăng năng suất, vợ chồng ông Hành mạnh dạn tiến hành cải tiến quy trình kỹ thuật chăm sóc, “ép” cây vải ra quả từ thân. Ban đầu chỉ thử nghiệm một vườn, sau tăng lên hai vườn. Khi đã có kinh nghiệm, gia đình ông chuyển đổi toàn bộ số vườn vải thiều sang kỹ thuật mới. Từ đó, chất lượng, sản lượng quả vải cao hơn. Mỗi cây cho sản lượng khoảng 40-50kg ở thân, vải trên ngọn đạt sản lượng 70-80kg, thậm chí có cây cho tới 1,8 tạ quả.
Đến mùa vải năm 2019, ông Hành tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, bắt tay với doanh nghiệp, chuyển sang hình thức làm quả vải thiều hữu cơ. Kết quả mùa vải thiều năm 2019, gia đình ông Trần Văn Hành có 3 tấn vải thiều hữu cơ chất lượng cao bán cho các doanh nghiệp. Theo vợ chồng ông Hành, làm vải thiều hữu cơ năng suất không cao được như trồng vải theo phương thức VietGAP, song đổi lại, quả vải hữu cơ dễ bán. Mỗi năm, gia đình ông có thu nhập khoảng 800-900 triệu đồng từ quả vải.
Để có được những kết quả đó là nỗ lực của cả hệ thống các cơ quan chức năng huyện Lục Ngạn. UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn phối hợp tổ chức được 71 lớp tập huấn kỹ thuật, tổ chức cho nông dân tham gia vùng sản xuất vải thiều xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản ký cam kết thực hiện theo đúng hướng dẫn của cơ quan chuyên môn về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và thời gian cách ly. Địa phương còn phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật, Sở NN&PTNT xây dựng quy trình xông hơi khử trùng quả vải bằng khí methyl bromide, lựa chọn đơn vị, địa điểm thực hiện phù hợp, ban hành hướng dẫn quy trình kỹ thuật thu hoạch, sơ chế, đóng gói sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường Nhật Bản. Ngoài ra, việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ bảo quản và nâng cao chất lượng quả vải Lục Ngạn bằng màng bao gói khí quyển biến đổi MAP, công nghệ Juran (Israel), công nghệ CAS của Nhật Bản bảo đảm cho sản phẩm vải thiều giữ nguyên được cấu trúc, hương vị, màu sắc và dinh dưỡng, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu cũng được triển khai thực hiện…
Không chỉ dừng lại ở đó, UBND huyện Lục Ngạn cũng đã phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật cấp 18 mã số cho 99 hộ sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Nhật Bản với tổng diện tích 98ha tại 6 xã: Hồng Giang, Quý Sơn, Giáp Sơn, Tân Sơn, Hộ Đáp, Nam Dương (vượt 53ha so với kế hoạch), dự kiến sản lượng đạt khoảng 900-1.000 tấn. Trong đó, huyện đã tập trung hỗ trợ thuốc bảo vệ thực vật cho 38 hộ với diện tích 50ha tại 4 xã: Nam Dương, Quý Sơn, Tân Sơn, Hộ Đáp với mức kinh phí hỗ trợ là 10 triệu đồng/ha, hỗ trợ 1 triệu đồng/ha để xây mới, cải tạo nâng cấp kho bảo quản thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để thực hiện thí điểm màng bao quả.
Nhộn nhịp mùa vải
Vài năm gần đây, giá vải nhìn chung khá ổn định. Người dân Lục Ngạn ngày một khấm khá.
Mùa vải Lục Ngạn năm nay chia thành hai đợt: Vải chín sớm thu hoạch từ ngày 25-5, vải chính vụ thu hoạch từ ngày 10-6 đến 30-7. Theo ông Hoàng Văn Lậy, Phó trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Lục Ngạn, trên địa bàn huyện hiện có hơn 150 điểm thu mua cố định, sản lượng tiêu thụ 1.310 tấn, lũy kế 16.662 tấn. Giá bán dao động từ 11.000 đồng đến 38.000 đồng/kg, chủ yếu là vải sớm Thanh Hà, vải u các loại và vải thiều. Hàng trăm lò sấy của nhân dân sẵn sàng hoạt động, công suất từ 13.000 đến 15.000 tấn quả.
Với sản lượng lớn như trên, các mặt hàng phụ trợ như thùng xốp, nước đá công nghiệp, bao bì… cũng được đẩy mạnh sản xuất, vừa tạo việc làm cho người dân, vừa bảo đảm đáp ứng nhu cầu của thị trường với khoảng 3.750.000 chiếc thùng xốp và 885.000 cây đá (do 3 công ty sản xuất thùng xốp, 38 kho chứa xốp, 42 cơ sở sản xuất nước đá công nghiệp trên địa bàn huyện sản xuất, cung ứng).
Cùng với đó, do tình hình dịch Covid-19 trên thế giới và trong nước còn diễn biến phức tạp, khó lường, UBND huyện cũng đã xây dựng kế hoạch hỗ trợ nhân dân sản xuất, chế biến và tiêu thụ vải thiều theo 3 phương án (tình huống) chặt chẽ. 5 khách sạn, nhà nghỉ đã được bố trí để đón thương nhân nước ngoài đến cách ly y tế tập trung đủ 14 ngày, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch cho các thương nhân đến giao dịch, thu mua, tiêu thụ vải... Tất cả đều mong chờ một vụ mùa thắng lợi!
Bài và ảnh: HOÀNG VIỆT