Cuối một buổi chiều mùa hạ, 5 chị em diễn viên trong đoàn: Bích Nồng, Minh Huệ, Mai Tư, Minh Lý và Tuấn Mỹ được mời đến Phủ Chủ tịch. Bác Hồ đến, mọi người ùa lại vây quanh. Người giản dị trong bộ quần áo công nhân, đầu đội mũ lưỡi trai. Bác nói: “Các cháu ăn kẹo, uống nước đi” rồi lật trang sổ tay ghi dòng chữ: “Ngày 1 tháng 5 năm 1969” và vừa hỏi vừa ghi tên, tuổi, quê quán, sức khỏe, học lực, hoàn cảnh gia đình của từng người.
- Thưa Bác! Cháu là Lê Thị Mai Tư, quê ở Đô Lương, Nghệ An.
Bác vừa ghi vừa cười tươi:
- À! O ni quê choa đây. “Trai Cát Ngạn, gái Đô Lương” đây.
Mọi người cười vui vẻ trước câu nói ấm áp, chân tình giọng Nghệ của Bác. Bác hỏi tiếp người ngồi kề Mai Tư; Bích Nồng thưa với Bác, quê Vĩnh Linh. Bác nhìn cô trìu mến:
- Ở Vĩnh Linh cháu có ra Cồn Cỏ biểu diễn không?
- Thưa Bác, có ạ!
Đặt cây bút vào trang sổ, Bác nhìn Bích Nồng khuyến khích:
- Cháu hãy kể cho Bác nghe về cuộc sống của chiến sĩ ta trên đảo thế nào?
    |
 |
Bà Lê Thị Bích Nồng (đứng thứ hai, từ trái sang) cùng Đội văn nghệ quần chúng thị trấn Cửa Tùng (Vĩnh Linh, Quảng Trị). |
Lúc này giọng nói của Bác chùng xuống, vẻ mặt Người thoáng xúc động khi hỏi về cuộc sống của các chiến sĩ trên đảo khiến Bích Nồng rơm rớm nước mắt, lo không giữ được bình tĩnh. Mới năm ngoái đây thôi (1968), cô cùng Đội Tuyên truyền văn hóa ra biểu diễn ở Cồn Cỏ, tận mắt thấy bộ đội ta nhường nhau từng bi đông nước ngọt. Lại có chuyện chiến sĩ Trần Văn Thực bị thương phải mổ, nhưng trạm xá đảo hết thuốc gây mê nên bác sĩ rất do dự. Thực biết liền động viên: “Bác sĩ cứ mổ đi, tôi chịu được”. Và trong khi bác sĩ phẫu thuật, để kìm cơn đau, Thực hát vang bài “Giải phóng miền Nam”... Những đêm trên đảo, Bích Nồng và vài người bạn trong đội xách bao tải theo chiến sĩ nuôi quân ra khe đá bắt hàng tá cua đá đem về nấu canh chua, thêm chút đạm cho bữa ăn của bộ đội. Chuyện đó đã được Ngọc Cừ, Chính trị viên phó của đảo và Phan Ngạn viết thành ca khúc “Con cua đá” nổi tiếng...
Còn diễn viên Minh Huệ thì kể về cuộc sống, chiến đấu của đồng bào Nghệ An, Hà Tĩnh. Minh Huệ thưa với Bác:
- Chúng cháu xin phép hát một số làn điệu dân ca miền Trung để Bác nghe.
Bắt đầu, Minh Lý ca điệu hò khoan Lệ Thủy, Quảng Bình, rồi Tuấn Mỹ hát ví, giặm Nghệ Tĩnh, tiếp đến Bích Nồng hát điệu ru con miền Trung: À ơi... ru em em ngủ cho ngoan/ Để mẹ (ư ứ ư) đi chợ bán rau, bán chè (ư ứ ư)...
Bích Nồng vừa ngừng hát, Bác nói ngay:
- Hồi trẻ, lúc ở Huế, nhiều lần Bác đã nghe các bà mẹ ru con, hát đến chỗ “ư ứ ư”, ngân dài hơn chứ không ngắn như cháu Nồng vừa hát đâu.
Minh Huệ thưa với Bác xin hát lại điệu ru con để Bác xem thử được chưa. Bác cười, gật đầu. Huệ lấy giọng bắt vào khá cao: Ơ ờ... ru em, em ngủ cho muồi...
Bác sửa lại:
- Cháu phải hát: “Ru tam, tam théc cho muồi”...
Minh Huệ hát lại: Ru tam, tam théc cho muồi/ Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Bác lại sửa:
- “Để mạ đi chợ” mới đúng.
Huệ hát tiếp: Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu/ Mua cau chợ Sải, mua trầu chợ Dinh.
Bác cười ân cần và sửa tiếp:
- “Mua cau Nam Phổ” chớ không phải “chợ Sải”. Hát rứa mới đúng!
Đến lượt Mai Tư hát điệu ví dân ca Nghệ Tĩnh: Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục...
Đây là câu mở của điệu ví đò đưa, nhưng Bác mới nghe lọt câu này liền cười nhắc:
- Ở Nghệ An gọi “nác” chứ không gọi “nước” mô.
Vẻ bẽn lẽn như người có lỗi, Mai Tư cố gắng lấy lại bình tĩnh hát tiếp câu cuối: Thuyền em lên thác xuống ghềnh, nước non là nghĩa là tình ai ơi.
Bác bảo:
- Cháu quên rồi, “nác non” chớ!
Phải đến lần thứ ba Mai Tư mới hát đúng. Bác vỗ tay cười rạng rỡ và nói:
- Hát dân ca khi gặp bài bản cổ không nên pha trộn lời cổ với lời mới, làm giảm cái hay của nó đi.
Cả 5 chị em đồng thanh:
- Thưa Bác, chúng cháu xin hứa nhớ lời Bác dạy ạ!
Bác cười gật đầu, khuyến khích:
- Tốt! Tốt lắm!
Các diễn viên thật không ngờ, Bác xa quê hương mấy chục năm trời, đã qua bao đất nước xa lạ, biết hàng chục thứ tiếng mà Người vẫn nhớ như in từng giọng nói địa phương, từng điệu hát quê nhà. Bác dặn phải thường xuyên học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, từ việc học lời ăn tiếng nói trong nhân dân, học ca dao, tục ngữ, học dân ca ba miền Bắc-Trung-Nam đến học văn hóa, ngoại ngữ... phải thực sự cầu thị, “năng nhặt chặt bị” để phục vụ bộ đội và nhân dân tốt hơn...
Ngày 17-5-1969, năm chị em lại được đến Phủ Chủ tịch gặp Bác Hồ lần nữa. Hôm nay dường như Bác khỏe hơn. Bắt đầu chương trình, Minh Huệ hát trước, điệu Ru con Nghệ Tĩnh. Tại phòng khách của Bác lúc này, ngoài Bác và người thư ký còn có thêm vài ba người nữa là cấp dưỡng, bảo vệ, giúp việc... Bỗng Bác khoan thai chỉ tay vào chỗ Mai Tư ngồi và nói với mọi người: “Ngài Nghệ An choa đó”, rồi hỏi:
- Trong ta chừ có dệt vải nữa không?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
- Có “phường vải” không?
- Thưa Bác, không làm phường như trước. Bà con vào hợp tác xã cả rồi.
- Rứa cháu có biết hát “phường vải” không?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
- Cháu hãy hát một câu mà các cụ ta xưa thường hát.
Thực ra điệu dân ca này Mai Tư chỉ biết vài lời mới, lời cổ mà “các cụ ta xưa thường hát” thì còn mù mờ lắm nên mạnh dạn thưa với Bác sự yếu kém của mình. Bác tỏ ý thông cảm:
- Thì cháu lấy câu ni để hát Khuyên ai chớ lấy học trò... Cháu tiếp đi!
- Thưa Bác, có phải Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm không ạ?
Bác cười, gật đầu. Mai Tư hăm hở hát khá chuẩn vế đầu điệu “phường vải”, nhưng vốn liếng về lời cổ điệu hát này Mai Tư chỉ có thế nên hát hết câu 8 cặp lục bát trên thì lúng túng không biết phải làm gì nữa, nhất là khi nghe tiếng Bác giục: “Cháu hát tiếp vế đối đi chớ” thì lúc này sự lo ngại đã hằn rõ trên nét mặt. Thấy vậy, Bác nhắc luôn: Lưng dài có võng đòn cong/ Áo dài đã có lụa hồng vua ban.
Chẳng biết lập cập thế nào Mai Tư không hát “có võng đòn cong” mà nhầm thành “có võng vồng tôm” khiến Bác, cháu đều cười vui vẻ.
Đợi mọi người yên lặng, Bác mới nhẹ nhàng sửa lại:
- “Đòn cong” chớ.
Lúc này, đồng chí Vũ Kỳ ghé tai Mai Tư thì thầm đủ một người nghe:
- Cháu hát tiếp là “áo dài đã có lụa hồng Bác ban”.
Mai Tư hát theo, Bác vỗ tay cười nhưng nói ngay:
- Cháu hát hay, nhưng Bác có phải là vua đâu!
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kỷ niệm hai lần được gặp Bác Hồ, hát dân ca cho Bác nghe; đặc biệt là được Bác sửa cho từng lời, từng câu, được Bác ân cần thăm hỏi, dặn dò không bao giờ mờ phai trong tâm khảm 5 nghệ sĩ-chiến sĩ quê hương Khu 4 anh hùng: Lê Thị Bích Nồng và Trần Thị Minh Huệ (Quảng Trị), Lê Thị Mai Tư (Nghệ An), Minh Lý (Quảng Bình), Tuấn Mỹ (Hà Tĩnh).
Bài và ảnh: TRẦN BIÊN