Thôn Ất, phường Hạp Lĩnh, tỉnh Bắc Ninh ngày nay vốn nằm trong xã Nghi Vệ gồm các thôn Trần, Tiên Xá..., một vùng đất “bờ xôi ruộng mật” đúng nghĩa. Người dân quê tôi hiền lành, chất phác và chăm chỉ. Những năm của thập niên 1940, bố tôi là cụ Nguyễn Văn Tịch làm xã tuần trong thôn nên mọi người vẫn thường gọi là cụ xã Tịch.
Một ngày cuối năm 1944, nhà tôi có khách là hai người đàn ông lạ. Họ nhỏ to bàn với bố tôi chuyện gì đó với khuôn mặt rất nghiêm túc. Thế rồi những ngày sau, bố tôi đã khéo léo tập hợp 16 thanh niên để thành lập một hội tập võ rồi đón thầy Đỗ từ xã Khắc Niệm về làng dạy cho các hội viên. Dù mới 13-14 tuổi, nhưng thấy tôi ham thích tập võ nên bố động viên tôi tập luyện, vừa để rèn luyện sức khỏe vừa để phòng thân. Mấy hôm sau bố tiết lộ, hai người khách đến nhà hôm trước là người của Việt Minh ở thôn Trần, cách thôn chúng tôi không xa. Các ông ấy hướng dẫn bố tôi cách thức xây dựng cơ sở cách mạng ngay tại quê nhà để chờ thời. Từ đó lòng tôi háo hức với hai từ Việt Minh.
Lớp học võ do bố tôi tổ chức không có gì đặc biệt. Bề ngoài chỉ là những buổi luyện võ nghệ bình thường, nhưng thực chất sâu bên trong là hoạt động vận động, tuyên truyền, thuyết phục thanh niên theo đuổi con đường cách mạng và sẵn sàng ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Qua tháng ngày kiên trì vận động và giác ngộ, phần lớn thanh niên trong đội tập võ đã thấu hiểu vai trò quan trọng cùng mục tiêu cao cả của Mặt trận Việt Minh, từ đó tự nguyện theo bước con đường cách mạng và nhiệt thành ủng hộ tổ chức.
Sáng sớm 19-8-1945, bố tôi cùng 16 tự vệ thuộc tổ chức Mặt trận Việt Minh từ các thôn của xã Nghi Vệ, gồm: Trần, Ất, Sơn và Tiên Xá mang theo trang bị, vũ khí thô sơ, như: Giáo mác, gậy gộc, với quần áo nai nịt gọn gàng, tập trung tại đình làng Long Khám cách nhà tôi khoảng 7km. Tại đây, trong không khí trang nghiêm, một cán bộ của Đảng phổ biến nhiệm vụ khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Bắc Ninh. Rồi đoàn khởi nghĩa lên đường và tôi cũng theo chân đoàn khởi nghĩa ấy.
    |
 |
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Mạc. |
Đoàn quân khởi nghĩa tiến về thành Bắc Ninh với khí thế cách mạng như thác đổ. Quân Nhật cố thủ trong thành không chịu mở cổng. Lực lượng tự vệ quả cảm đã xông thẳng vào, phá tung cổng thành, bao vây chặt chẽ. Trước sức mạnh và lòng quyết tâm của quần chúng, quân Nhật buộc phải mời đại diện Việt Minh vào để điều đình. Một bộ phận Việt Minh cùng nhân dân xông vào chiếm giữ trại bảo an, cảnh binh, nhà ngân hàng cùng các cơ quan hành chính của chính quyền bù nhìn. Quân địch giữ thành chống trả yếu ớt rồi đầu hàng. Rồi lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cổng thành Bắc Ninh, dấu hiệu cho sự xuất hiện của chính quyền nhân dân trên toàn tỉnh.
Những ngày sau, bố tôi được bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban hành chính xã Hạp Lĩnh, cùng các đồng chí của mình bắt tay vào xây dựng và phát triển quê hương.
Rồi toàn quốc kháng chiến nổ ra, người dân quê tôi sơ tán, đào công sự chiến đấu, bảo vệ trụ sở và kho tàng. Khắp làng trên xóm dưới, mọi người cùng một lòng, biến mỗi xóm thôn thành một pháo đài kiên cường, chung sức cùng cả nước chống giặc ngoại xâm.
Đến năm 1948, tôi quyết định cùng anh Nguyễn Đức Viên hơn tôi hai tuổi trốn nhà lên gặp ông Trần Kim Hồng, Xã đội trưởng và thỉnh cầu được đi bộ đội. Nói mãi ông Hồng mới viết giấy giới thiệu cho chúng tôi đi. Lúc đó, bố tôi làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Hạp Lĩnh nên ông Hồng lo bố tôi không đồng ý. Lên đến Huyện đội, tôi được bố trí làm liên lạc, được phát hai quả lựu đạn, lúc nào cũng đeo lủng lẳng bên hông, trông thật oai vệ.
Năm 1950, trong một lần từ Huyện đội về, bố tôi bảo cầm thư giới thiệu của ông lên Việt Bắc đi học viết báo, sau này giúp ích lâu dài cho đất nước. Nhưng khi đến nơi thì lớp viết báo không tổ chức nên tôi quyết định đăng ký vào học lớp báo vụ (vô tuyến điện).
Lớp học được mở ra tại vùng Thượng Đình thuộc tỉnh Thái Nguyên với gần 40 học viên, do đồng chí Nguyễn Phi Hồng phụ trách. Giáo viên đều là những điện báo viên xuất sắc.
Giữa lúc tôi đang tập trung cho việc học thì có người cùng làng tôi lên An toàn khu họp. Vừa nhìn thấy tôi, bác ôm chầm lấy, nước mắt trào ra, nghẹn ngào trong tiếng nấc. Bác kể chuyện làng bị địch càn quét, dân bị dồn lại tra khảo, và bố tôi đã anh dũng hy sinh. Như tiếng sét ngang tai, tôi chỉ kịp thốt lên: “Bố ơi!...”.
Tôi lặng đi, tim đau nhói, nước mắt tuôn trào... Phải mất một lúc sau, tôi mới bình tĩnh hơn để nghe bác kể về việc bố tôi hy sinh như thế nào. Đó là ngày 11-5-1950, giặc Pháp mở trận càn lớn vào khu du kích. Tại khu núi Đồng Tranh, làng Xuân Hội (nay thuộc xã Tân Chi, tỉnh Bắc Ninh), quân giặc dồn dân lại một chỗ để khảo tra, ép buộc mọi người phải chỉ ra hầm bí mật của du kích. Bố tôi bị chúng bắt giữ ở khu Đồng Tranh, chúng tra tấn ông một cách dã man, dùng đủ mọi thủ đoạn tàn bạo để moi thông tin về lực lượng du kích và nơi cất giấu súng đạn. Nhưng ông vẫn một mực cắn răng chịu đựng, tuyệt nhiên không hé lộ điều gì. Tức giận vì không khai thác được gì, chúng bắt bố tôi phải quỳ xuống để làm nhục. Nhưng ông nhất quyết đứng thẳng, không khuất phục. Hai tên lính Pháp xông tới, đứng hai bên giữ chặt tay ông. Một tên thứ ba, từ từ bước ra trước mặt, mắt lạnh lùng nhìn ông rồi giơ khẩu súng lên, dí thẳng nòng súng vào miệng ông... Bố tôi hy sinh cách nơi ông sinh ra và lớn lên chỉ hơn một ki-lô-mét đường chim bay. Mảnh đất quê hương từng in dấu chân tuổi thơ, từng gắn bó với bao kỷ niệm của ông, giờ đây cũng là nơi ông ngã xuống vì Tổ quốc.
Sau khi học xong lớp báo vụ, tôi được điều về Cục Thông tin liên lạc và theo chân các chiến dịch lớn, từ Tây Bắc, sang Lào, Điện Biên Phủ rồi lại về Thái Nguyên, sau đó tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc cho đến lúc nghỉ hưu.
Những ngày mùa thu cách mạng tràn về, tôi nhớ mùa thu của 80 năm trước. Đó là mùa khởi đầu tinh thần cống hiến với những thanh niên như tôi. Giờ đây, chứng kiến đất nước hòa bình, đổi mới và phát triển, tôi như sống lại không khí sục sôi của mùa thu ấy. Cách mạng về đã thay đổi cuộc đời tôi.
THIỆN VŨ (ghi theo lời kể của cựu chiến binh Nguyễn Văn Mạc)