Dựng xây chế độ chính trị mới 

Mục tiêu phát triển của dân tộc Việt Nam sau bao phen trải nghiệm tìm tòi, cuối cùng được Bác Hồ, được Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta xác định là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, khởi nguồn sinh lực cho chế độ chính trị mới, chế độ dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình; xác tín rằng dân tộc Việt Nam đã, đang và tiếp tục đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội, đã đứng về phe Đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, kiên quyết và kiên trì tranh đấu loại bỏ chủ nghĩa thực dân trong lịch sử nhân loại.

Cũng từ ngày đó, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, sau 15 năm “trồng cây uy đức” (1930-1945), được nhân dân tín nhiệm, tin tưởng trao cho quyền lãnh đạo đưa dân tộc phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

leftcenterrightdel
Chương trình nghệ thuật tại Lễ phát động cuộc thi báo chí viết về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại với chủ đề “Vững bước dưới cờ Đảng", tháng 2-2025. Ảnh: PHÚ SƠN  

“Vạn sự khởi đầu nan”. Sự mở đầu của chế độ chính trị mới đầy khó khăn, thử thách. Nhưng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã kiên trì vượt qua mọi trở ngại để giữ vững chế độ chính trị tốt đẹp ấy. Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn, quan điểm đó của V.I.Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta thực hiện một cách tích cực nhất với tài trí của lãnh tụ Hồ Chí Minh và của Đảng, với sức mạnh tổng hợp vô biên trong đó có khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một hệ thống chính quyền cách mạng được thiết lập từ Trung ương đến cơ sở; các giai tầng bắt tay vào công cuộc dựng xây phục hưng quê hương, đất nước.

Với bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ năm 1945, tên đất nước “Việt Nam” được tái hiện trên bản đồ thế giới, nhưng với cái chất hoàn toàn mới: Một nước độc lập, tự do và có một tương lai tươi sáng. Cái mốc lớn này đã xô đổ mọi kỷ lục về gian khó và quang vinh trong lịch sử tranh đấu dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam từ thời Hùng Vương trở đi.

Đánh thắng các thế lực xâm lược và tay sai

Sau khi giành được chính quyền, nhân dân Việt Nam phải liên tục chiến đấu chống giặc ngoại xâm và các thế lực tay sai để bảo vệ Tổ quốc. Nổi rõ nhất là giành thắng lợi của 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954); toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 21 năm (1954-1975) và bảo vệ vững chắc biên giới phía Tây Nam, biên giới phía Bắc.

Nhân dân Việt Nam yêu hòa bình và công lý, hiểu rõ hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do, của thái bình, hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, thân thiện trong đối nội và trong mối bang giao quốc tế. Trong huyết quản của người Việt Nam yêu nước, bao giờ cũng thấm đặc tinh thần bất khuất, không cam chịu để ngoại bang xâm lược, tự nguyện dấn thân, chịu trăm bề hy sinh, mất mát, kể cả tính mạng của mình, cho Tổ quốc được độc lập, cho nhân dân được yên vui, được thực sự hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc.

leftcenterrightdel
Chương trình nghệ thuật tại Lễ phát động cuộc thi báo chí viết về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại với chủ đề “Vững bước dưới cờ Đảng", tháng 2-2025. Ảnh: PHÚ SƠN  

Nhìn lại 80 năm qua, có lẽ trên thế giới không có một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam đã làm nên kỳ tích có một không hai ấy. Đó là với Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, báo hiệu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn cầu. Thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ, cứu nước với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975) đã thúc đẩy cho sự tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Việt Nam đã “cắm cây thập tự” lên ách bạo tàn thực dân thế kỷ 20 đầy bi hùng, thế kỷ phi thực dân hóa trên toàn cầu.

Các cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay đã nói lên một điều rằng: Không có bất cứ một thế lực nào, dù cường mạnh, xảo quyệt, tráo trở đến mấy, có thể làm nhụt chí được tinh thần bất khuất, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta.

Thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước

Về thời gian, nếu tính từ Đại hội VI của Đảng tháng 12-1986, công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân Việt Nam đã trải qua gần 40 năm, tức là chiếm gần một nửa trong chặng đường 80 năm của chế độ chính trị mới.

Đất nước đã tiến những bước dài trên con đường xây dựng theo mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, hay nói theo nghị quyết của Đảng, đó là mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, hoặc nữa là theo “điều mong muốn cuối cùng” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bản “Di chúc”: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

leftcenterrightdel
TP Hồ Chí Minh rực rỡ, lung linh nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2025). Ảnh: THẾ CẦU 

Công cuộc đổi mới đất nước trong gần 40 năm qua cho chúng ta thấy rõ ít nhất 3 điều:

 Một là, đất nước giữ được thế ổn định chính trị, không hề suy xuyển mục tiêu và con đường phát triển. Trong khi hệ thống XHCN trên thế giới bị sụp đổ cuối thế kỷ 20, Việt Nam vẫn kiên định phát triển theo mục tiêu XHCN. Và thực tế chúng ta tìm thấy nhiều phương sách phù hợp, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh mới, hoàn cảnh của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.

Hai là, trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã tạo được cho mình một sức mạnh tổng hợp lớn: Có nền kinh tế phát triển vượt bậc so với trước đây; có văn hóa, xã hội phát triển vượt bậc, đầy tính ưu việt, nhân đạo, nhân văn; có nền quốc phòng, an ninh, đối ngoại vững chắc; nhân dân có cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao; có sức mạnh của cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam làm hạt nhân lãnh đạo lấy mục tiêu mà dân giao phó: Đưa nước nhà tiến lên CNXH, làm cho đất nước hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu, thỏa lòng mong muốn của Bác Hồ, thỏa khát vọng cháy bỏng của con dân đất Việt không muốn chịu đứng dưới lằn ranh của nghèo nàn, lạc hậu. Hệ thống chính trị ấy đã chuyển mình trong sắp xếp bộ máy tổ chức. Chỉ vỏn vẹn mấy tháng thôi, chính quyền địa phương hai cấp và việc sắp xếp lại một số đơn vị cấp tỉnh, bỏ cấp quận, huyện đi vào hoạt động.

Ba là, gần 40 năm đổi mới, Việt Nam nâng tầm quan hệ đối ngoại lên một trình độ mới. Mấy năm đầu của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nước ta chưa được nước nào công nhận. Nhưng từ đầu thập niên 1950 trở đi, các nước XHCN  lần lượt thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cả về Đảng, Nhà nước. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước và các cộng đồng trên thế giới, nhất là thiết lập đối tác chiến lược toàn diện với các nước lớn. Việt Nam đã thành công trong việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về quảng giao để phát triển, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, hợp tác, hữu nghị có trách nhiệm trên tinh thần các bên cùng có lợi, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhau, đúng như nhận định của Đại hội XIII của Đảng: Việt Nam chưa bao giờ có được uy tín quốc tế như hiện nay.

Nói một cách toàn diện, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập, Việt Nam đang có một không gian môi trường xã hội thuận lợi và đang phát huy điều đó trong việc đóng góp tích cực thúc đẩy quan hệ quốc tế vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển.

Vẫn còn nhiều, rất nhiều thử thách và những vật cản trên con đường phát triển mà Việt Nam không chủ quan, tự mãn, trong đó có cả những điểm nghẽn, đặc biệt là điểm nghẽn về thể chế được coi là “điểm nghẽn của nghẽn” mà hiện nay Đảng và hệ thống chính trị đang ra sức tháo gỡ. Nhưng, vốn liếng cho những bước đi mạnh hơn đã có do tích lũy được ở cả chiều dài cũng như chiều sâu 80 năm độc lập, tự do. Nhân dân Việt Nam đón chào 80 năm Quốc khánh trong tinh thần, khí thế của những người tràn đầy nghị lực tiến bước.

GS, TS MẠCH QUANG THẮNG