Thứ hai, chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng trên tất cả mọi mặt.
Việc đế quốc Mỹ mở Chiến dịch Linebacker 2, dùng máy bay B-52 đánh phá vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trên miền Bắc không phải là bất ngờ đối với chúng ta.
Từ đầu năm 1968, Quân chủng Phòng không-Không quân đã bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ trong vòng 5 năm tới. Đây có thể nói là một bản kế hoạch rất độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả phía Mỹ cũng chưa có chút manh nha gì về kế hoạch tiến công ồ ạt miền Bắc bằng máy bay B-52.
Trong việc chuẩn bị cho cuộc chiến đấu chống máy bay B-52, phần lớn nội dung là công việc của bộ đội tên lửa SAM-2.
Từ tháng 4-1965, các chuyên gia quân sự Liên Xô đã tới Việt Nam để huấn luyện kỹ thuật cho bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam. Ba năm sau, năm 1968, Liên Xô còn đưa các chuyên gia về lĩnh vực radar sang giúp ta nghiên cứu, tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả tác chiến của tên lửa, trong điều kiện địch sử dụng các biện pháp gây nhiễu mới.
Tên lửa SAM-2 nhanh chóng được đưa vào chiến đấu và đạt hiệu quả cao. Với loại vũ khí này, bộ đội tên lửa phòng không đã trở thành một trong những lực lượng nòng cốt bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Ngay trận đầu ra quân (ngày 24-7-1965), hai Tiểu đoàn 63 và 64 (Trung đoàn 236) đã hiệp đồng chặt chẽ, mỗi tiểu đoàn phóng hai quả đạn đã bắn rơi tại chỗ một chiếc máy bay F4C, làm nên chiến thắng đầu tiên cho bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam. Cũng tính từ ngày đó trở đi, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ - từ năm 1964 đến 1972 - các đơn vị tên lửa SAM-2 của Quân đội ta đã đánh tổng cộng hơn 3.540 trận (có 588 trận đánh đêm), phóng hơn 5.880 quả đạn, bắn rơi 788 máy bay Mỹ (có 386 chiếc rơi tại chỗ), trong đó có 43 máy bay B-52.
Trong 12 ngày đêm của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, cuối tháng 12-1972, các đơn vị tên lửa SAM-2 đã bắn rơi 29 máy bay B-52 (trong tổng số 34 chiếc). Cho đến nay, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã sử dụng tên lửa SAM-2 đánh thắng máy bay chiến lược B-52 - “thần tượng” của không lực Hoa Kỳ.
SAM-2 là tên gọi mà các quốc gia phương Tây đặt cho loại tên lửa S.75 Dvina, do Liên Xô chế tạo và viện trợ cho Quân đội ta. Đây là loại tổ hợp tên lửa đất đối không tầm cao, được điều khiển bằng hệ thống radar 3 tác dụng. Đạn tên lửa dùng trong hệ thống SAM-2 là V-750. Loại đạn này có hai tầng: Động cơ đẩy, sử dụng nhiên liệu rắn; động cơ hành trình, sử dụng nhiên liệu lỏng để duy trì quỹ đạo bay. Tầm bắn của tên lửa SAM-2 có thể lên đến gần 40km và độ cao bắn lên đến 25km. Độ cao bắn này giúp tên lửa hoàn toàn có khả năng “hạ gục” máy bay B-52. Đầu đạn tên lửa SAM-2 là loại tạo mảnh, chứa gần 200kg thuốc nổ và có tốc độ bay đạt Mach 3. Bán kính tiêu diệt mục tiêu của đạn V-750 khoảng 65m (ở độ cao lớn, khí quyển loãng, bán kính tiêu diệt mục tiêu có thể lên tới 250m). Khi cách mục tiêu khoảng 60m, hiệu ứng vô tuyến sẽ kích hoạt ngòi nổ sát thương, gây nổ đạn. Ngòi nổ tự hủy của đạn hoạt động theo chế độ tự động và chỉ được kích hoạt ở độ cao hơn 23km, khi ngòi nổ sát thương không hoạt động (trường hợp không trúng mục tiêu). Khi đầu đạn được kích hoạt, sẽ sinh ra một nhiệt lượng rất lớn, sóng xung kích mạnh và tạo ra hàng chục ngàn mảnh đạn để diệt mục tiêu.
Có nguồn tin cho rằng, tên lửa SAM-2 đã được cải tiến để nâng tầm bắn. Sự thật không phải như vậy. Vì tên lửa SAM-2 có thể hạ mục tiêu ở độ cao trên 24.000m, trong khi độ cao của B-52 là 17.000m (khi ném bom thì độ cao bay là 10.000m), nên việc nâng tầm bắn là không cần thiết. Trên thực tế, yếu tố giúp tên lửa bắn hạ B-52 nằm ở trong thiết bị radar để “vạch nhiễu tìm thù”.
Thật vậy, trong suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc Việt Nam, hệ thống radar đã được cải tiến tới 4 lần, với 40 nội dung kỹ thuật để kịp thời ứng phó với chiến tranh điện tử của đối phương, bảo đảm an toàn trong sử dụng và nâng cao độ chính xác khi chiến đấu.
Ở đây có một điều đáng chú ý là được sản xuất và vào giữa thập niên 1950, đến năm 1972, tên lửa SAM-2 đã rất lạc hậu so với hệ thống tên lửa SAM-4, SAM-5, SAM-6 mà Liên Xô đã chế tạo, có tính năng cao hơn rất nhiều. Vì vậy, SAM-2 vẫn là loại tên lửa phòng không duy nhất trong trang bị và Quân đội nhân dân Việt Nam không thể trông chờ vào viện trợ bên ngoài để kịp thời hành động. Bộ đội phòng không phải bằng mọi cách, tìm cho được những phương pháp đổi mới để đạt kết quả. Trong quá trình đó, không ít những khó khăn đã diễn ra, nhất là về mặt kỹ thuật.
Số là, năm 1967, Israel đã tịch thu được hơn 20 hệ thống SAM-2 nguyên vẹn, do quân Ả Rập bỏ lại trước khi rút chạy. Nhờ vậy, Mỹ đã nắm bắt được tường tận chi tiết của hệ thống này. Năm 1968, đến lượt một hệ thống radar cảnh giới P12 của Ai Cập lại bị rơi vào tay Israel. Toàn bộ kết quả phân tích đã được chuyển giao cho Mỹ.
Như vậy, đến năm 1970, các loại radar phòng không chủ yếu của Việt Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt. Mỹ đã chế tạo ra các thiết bị gây nhiễu rất hiệu quả, như phiên bản B-52D, lúc đầu mang 8 máy gây nhiễu thì đến tháng 12-1972 đã có 15 máy và 2 máy phóng nhiễu giấy bạc. Một tốp, ba chiếc B-52, có 45 máy gây nhiễu. Tất cả các loại nhiễu đó tạo thành một dải nhiễu chồng chéo, dày đặc, đan xen, công suất rất lớn, đủ sức che chắn cho toàn bộ máy bay trước hệ thống radar, tên lửa phòng không của đối phương.
Các đơn vị kỹ thuật của Mỹ khẳng định rằng đã có thể vô hiệu hóa được tên lửa SAM-2 thông qua tần số. Thế nhưng một điều hoàn toàn bất ngờ đã diễn ra ngay từ đêm 18-12-1972 (đêm đầu tiên bước vào Chiến dịch Linebacker 2), tên lửa SAM-2 của Việt Nam đã quật ngã 3 máy bay B-52 của Mỹ.
Một trong những người góp công sức quan trọng vào sự chuẩn bị chu đáo là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại Hà Nội, nhiệm kỳ 1964-1974, Illya Shcherbakov. Thấu hiểu tình hình thực tế khó khăn ở Việt Nam lúc bấy giờ, ông đã thay mặt Chính phủ Liên Xô ra quyết định, cho phép các chuyên gia quân sự Liên Xô có mặt tại Việt Nam lúc ấy, được phép can thiệp trực tiếp vào hệ thống tên lửa SAM-2, theo hướng tăng công suất radar, lớn hơn công suất hệ thống gây nhiễu của máy bay B-52. Mặc dù thời kỳ đó, Chính phủ và Hồng quân Liên Xô đã quy định, việc can thiệp vào yếu tố kỹ thuật của SAM-2 bằng hình thức nào cũng đều không được phép, dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Vì vậy, quyết định táo bạo của Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc giải mã hoàn toàn và đánh bại pháo đài B-52 trong năm 1972.
Trong quá trình chuẩn bị phương án tác chiến, phương pháp tác chiến chiến thuật cũng đã được quan tâm thích đáng, mà chiến thuật “cơ động phục kích” của tên lửa phòng không có một giá trị đặc biệt. Đó là một hình thức chiến thuật được sử dụng rất rộng rãi, bằng cách đưa các tổ hợp tên lửa cơ động phục kích đánh máy bay địch một cách bất ngờ. Những trận địa phục kích được bố trí tại những vị trí mà không quân địch không ngờ tới, đánh máy bay địch bất ngờ và rất hiệu quả.
Từ chiến thuật “cơ động phục kích”, tháng 6-1966, Quân chủng Phòng không-Không quân đã tổ chức cho Trung đoàn Tên lửa 238 cơ động vào Vĩnh Linh nghiên cứu cách đánh B-52. Và ngày 17-9-1967, Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 238, đã bắn rơi chiếc máy bay B-52 đầu tiên. Từ đó, chúng ta luôn duy trì một lực lượng ở chiến trường để đánh máy bay B-52, vừa đánh vừa nghiên cứu địch. Sau mỗi trận phục kích, các tổ hợp tên lửa lại được nhanh chóng thu hồi và rút khỏi trận địa. Thay vào đó là trận địa giả, gồm những quả tên lửa bằng tre và cót ép, được sơn và ngụy trang như tên lửa thật. Thông thường, ngay ngày hôm sau, không quân địch sẽ triển khai đánh phá trận địa mà chúng đã phát hiện. Thế nhưng, chúng không ngờ rằng đã lọt vào cái bẫy chết người của bộ đội ta. Việc hạ thấp độ cao để đánh phá tổ hợp tên lửa, khiến máy bay địch lọt vào vòng hỏa lực của pháo phòng không đã được bố trí quanh trận địa tên lửa giả.
Chiến thuật “cơ động phục kích” của tên lửa SAM-2 đã đánh thắng địch. Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô hoàn toàn “tâm phục, khẩu phục” và đánh giá đây là một chiến thuật độc đáo của bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam.
Đối với không quân, ngay từ giữa năm 1972, 12 phi công đã được chọn để lái máy bay tiêm kích chuyên đánh đêm (đòi hỏi kỹ thuật cao hơn so với không chiến ban ngày) để sẵn sàng đón đánh B-52. Kết quả là 2 máy bay B-52 đã bị không quân bắn rơi. Một chiếc thuộc về phi công Phạm Tuân và một chiếc thuộc về phi công Vũ Xuân Thiều.
Đến tháng 11-1972, tình hình chiến trường miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân tại miền Bắc trở nên khốc liệt hơn, với những hành động phiêu lưu quân sự mới của Tổng thống R.Nixon.
Để đối phó lại, miền Bắc đã tích cực xây dựng và củng cố lực lượng phòng không - không quân với khoảng 180 máy bay MiG, 2.300 bệ tên lửa SAM-2 và một hệ thống pháo cao xạ dày đặc. Bên cạnh đó, các trạm radar cũng được bố trí thành một mạng lưới liên hoàn, tại nhiều địa điểm mà địch không thể ngờ tới. Đặc biệt là đêm 22-11-1972, tại Nghệ An, Trung đoàn Tên lửa phòng không 263 đã phóng 4 quả đạn, diệt 2 máy bay B-52. Thắng lợi này đã khẳng định phương pháp nghiên cứu, tiếp cận về cách đánh máy bay B-52 ban đầu của ta có hiệu nghiệm.
Ngày 24-11-1972, bản kế hoạch tác chiến đánh trả B-52 của Quân chủng Phòng không - Không quân đã được chính thức thông qua lần cuối cùng, sau nhiều lần bổ sung, hoàn chỉnh. Trước đó, Bộ Tham mưu Quân chủng đã dày công soạn tài liệu "Cẩm nang bìa đỏ" hướng dẫn cách đánh B-52. Tuy chỉ dày có 30 trang đánh máy, nhưng “Cẩm nang bìa đỏ” là sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình gần bảy năm chiến đấu với máy bay B-52 và các thủ đoạn của không quân Mỹ. Đặc biệt, trong đó có những kinh nghiệm và phương pháp mới nhất, được rút ra sau trận tập kích vào Hải Phòng ngày 16-4-1972 bằng B-52 của địch. Những phương pháp đánh B-52 trong cuốn cẩm nang đã được quân chủng phổ biến tỉ mỉ cho từng kíp chiến đấu. Đến chiến thắng đêm 22-11-1972 của Trung đoàn 263, bắn rơi hai chiếc B-52, như đã nói, cuốn sách cẩm nang mới được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phê chuẩn.
Cuốn “Cẩm nang bìa đỏ” được nhiều người coi như bảo bối của bộ đội phòng không-không quân, một trong những nhân tố góp phần tạo nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Cho đến bây giờ, tài liệu này vẫn mang những ý nghĩa lớn cả về giá trị lịch sử và giá trị thực tiễn.
DƯƠNG XUÂN ĐỐNG