Tượng đài Bác Hồ tại bến Ninh Kiều có một chi tiết độc đáo mà ít người để ý, đó là ánh nắng luôn tỏa sáng trên gương mặt của bức tượng, dù buổi sáng, trưa hay lúc chiều tà. Bức tượng là tấm lòng kính yêu của người dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
“Làm sao để ánh nắng luôn tỏa sáng trên gương mặt của bức tượng? Điểm mấu chốt chính là vị trí đặt tượng!”, ông Hoài tự đặt câu hỏi và trả lời. Trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị ở phường Ba Láng (quận Cái Răng, TP Cần Thơ), ông hào hứng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện đi tìm vị trí và xây dựng tượng Bác: “Lúc ấy, khoảng đầu năm 1976, tôi vừa chuyển công tác từ Bộ Ngoại giao về Ban Đối ngoại (nay là Sở Ngoại vụ) tỉnh Hậu Giang (bao gồm TP Cần Thơ và hai tỉnh: Sóc Trăng, Hậu Giang hiện nay) thì được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ thiết kế, lựa chọn vị trí đặt tượng Bác. Trong tổ công tác của tôi có nhà điêu khắc Song Văn, nghe nói anh từng học Trường Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội. Chúng tôi xác định đây là nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang, vì chủ trương xây dựng tượng đài Bác Hồ được Ban Thường vụ Tỉnh ủy lúc bấy giờ bàn bạc, thống nhất triển khai và đây cũng là nguyện vọng của nhân dân vùng ĐBSCL.
|
|
Tượng đài Bác Hồ trên bến Ninh Kiều. |
Việc lựa chọn hình thức thể hiện tượng đài thì không khó, bởi chúng tôi đã có sẵn nhiều mẫu tượng và hình ảnh của Bác để tham khảo. Cái khó là vị trí đặt tượng đài làm sao để tất cả người dân được chiêm ngưỡng và dễ dàng tiếp cận. Tổ công tác đã trao đổi, làm việc bất kể ngày đêm, nhiều vị trí đặt tượng được đề xuất, trong đó có vị trí phía trước trụ sở UBND thành phố trên đại lộ Hòa Bình hiện nay nhưng đều không thuyết phục được Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tôi suy nghĩ rất nhiều, tìm hiểu thực địa kỹ lưỡng, cuối cùng chỉ thấy khu vực bến Ninh Kiều là phù hợp nhất. Bởi nơi đây trên bến dưới thuyền, là trung tâm giao thương của vùng ĐBSCL. Sau khi chúng tôi đề xuất, phương án này nhận được ý kiến ủng hộ cao của các đồng chí lãnh đạo”.
Nơi đặt tượng đã được xác định nhưng yêu cầu phát sinh là làm sao để ánh nắng không che khuất gương mặt của bức tượng, bất kể thời gian nào. “Đây là yêu cầu hết sức bất ngờ, thể hiện sự tinh tế trong chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy”, ông Hoài nói.
Để làm được điều đó, hằng ngày, từ sáng sớm đến chiều tối, ông Hoài đều đích thân ngồi xuồng bơi ra sông hoặc sang xóm Chài đối diện bến Ninh Kiều quan sát tỉ mỉ hướng nắng. Mất rất nhiều thời gian, ông mới xác định được chính xác vị trí đặt tượng đài và hướng nhìn của bức tượng.
Ông kể: “Những ngày đầu miền Nam mới được giải phóng, khu vực xóm Chài là nơi ẩn nấp của nhiều đối tượng chống đối cách mạng và rất manh động. Biết tôi là cán bộ cách mạng, ban đầu có rất nhiều ánh mắt thù hằn, dò xét nhưng chẳng bao lâu người dân đều hiểu được việc làm của tôi và ủng hộ hết mình. Chính những người sống bằng nghề chài lưới đã bày cho tôi cách bơi xuồng ra sông để quan sát các hướng nắng trong ngày”.
Còn quanh khu vực bến Ninh Kiều, ông Hoài kể, lúc bấy giờ tụ tập đủ mọi thành phần xã hội, chính quyền mới chưa kiểm soát được. Khi tập kết vật liệu xây dựng tượng Bác, ai cũng lo cho công tác bảo vệ. Nhưng kỳ lạ thay, bằng cách nào đó, các đối tượng xã hội đều biết việc làm ý nghĩa của những người xây dựng tượng đài nên tự giác, âm thầm bảo vệ công trình. “Hồi đó trộm cắp, cướp giật hoành hành nhưng tại công trình xây dựng tượng Bác, không một ký sắt, viên gạch, bao xi măng nào bị mất cắp. Cũng nhờ đó mà công trình xây dựng tượng đài Bác Hồ trên bến Ninh Kiều bằng chất liệu bê tông cốt thép được triển khai an toàn tuyệt đối, hoàn thành đúng vào dịp Quốc khánh 2-9-1976”, ông Hoài nhớ lại.
Tượng Bác Hồ trên bến Ninh Kiều hiện nay được đúc bằng đồng, khánh thành vào năm 2009, để chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Đây là công trình được xây dựng, nâng cấp trên cơ sở tượng đài trước đó. Ông Hoài tâm sự: “Việc chọn vị trí đặt tượng Bác là nhiệm vụ thầm lặng và chúng tôi luôn cảm thấy hết sức tự hào”.
Ông Huỳnh Văn Hoài sinh năm 1933 tại làng Tân Phú Thạnh (nay thuộc phường Ba Láng, quận Cái Răng, TP Cần Thơ). Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm 12 tuổi, Huỳnh Văn Hoài được giao nhiệm vụ làm liên lạc cho Mặt trận Việt Minh địa phương. Trong một trận tham gia phục kích đánh vào đoàn xe của địch hành quân trên lộ Đông Dương (Quốc lộ 1 ngày nay) năm 1952, ông bị thương và bị địch bắt làm tù binh, bị tòa đại hình của chính quyền thực dân Pháp tại Cần Thơ tuyên án chung thân, giam giữ lần lượt tại các khám lớn: Cần Thơ, Sài Gòn, Hải Phòng. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, ông có tên trong danh sách trao trả tù binh tại Sầm Sơn (Thanh Hóa). Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Đến năm 1970, nhờ thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông được cử sang công tác ở Đại sứ quán Việt Nam tại các nước: Liên Xô, Trung Quốc. Sau Ngày giải phóng miền Nam, ông Hoài có nguyện vọng trở về quê hương và làm việc cho đến lúc nghỉ hưu. |
Bài và ảnh: HỒNG ĐĂNG