Madeleine Riffaud sinh năm 1924, là con một của một cặp nhà giáo, “dòng dõi” nông dân nghèo, giảng dạy và sống ở miền Tây nước Pháp. Cha theo chủ nghĩa xã hội, từng mất một chân trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Riffaud bộc lộ thiên hướng thơ ca rất sớm và dự định theo nghề bố mẹ. Nhưng năm 1940, bà thay đổi hướng đời khi nhận ra sự cao ngạo, hỗn xược và vô nhân tính lì lợm của quân xâm lược Đức. Bà tham gia kháng chiến chống phát xít một cách thiết thực và dũng cảm. Đầu năm 1944, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp. Quyết đoán và cực kỳ gan dạ, bà được giao chỉ huy một nhóm chiến sĩ. Ở thủ đô Paris, nhóm của bà từng khôn khéo dừng được một đoàn tàu hỏa chở lính Đức, bắt sống nhiều tên. Cũng tại đó, ở tuổi 20, bà bắn chết một sĩ quan phát xít Đức, một cách đường hoàng, giữa thanh thiên bạch nhật. Đấy như một lời cảnh cáo quân xâm lược quá tàn bạo. Bà bị bắt. Mấy tuần bị tra tấn dã man, bà không khuất phục… Bà bị quân Đức kết án tử hình. Trong thời gian chờ bị bắn, bà làm nhiều thơ. Bài ca sự sống là bài thơ nói về cái chết được báo trước, có những câu được chuyền tay đọc mãi: “Những con người này sẽ giết tôi/ Nhưng chiến hữu, xin đừng giết họ/ Khi họ thua, như con chồn vào rọ/ Tối nay tôi xiết đỗi bồi hồi/ Tim chỉ còn tình yêu/ Ôi tình yêu khôn tỏ…”. Những tâm hồn cao thượng như bà không thể chết, cho nên bà được cứu sống một cách thần kỳ.

leftcenterrightdel
Bác Hồ với Madeleine Riffaud (năm 1966). Ảnh tư liệu

Bà trải qua một bi kịch đau đớn. Đó là không được đi theo đoàn quân giải phóng rút khỏi Paris sạch bóng quân xâm lược từ cuối năm 1944, vì vẫn bị coi là trẻ con, nhất là không có giấy chấp thuận của cha mẹ. Nhờ thi hào cộng sản Paul Eluard (1895-1952), bà được tiếp tục chiến đấu, với cây bút lợi hại và hút hồn. Một cuốn sách của bà được chào đón nồng nhiệt. Một số bài thơ của bà được phổ nhạc, rất thịnh hành thời đó. Bà vừa sáng tác lời ca khúc, vừa bắt đầu viết báo cho tờ Chiều nay của Louis Aragon (1897-1982). Sau đó là Đời thợ. Chính trên tờ này, bà góp phần làm cho không chỉ nước Pháp rúng động về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu mà thực dân Pháp tiến hành ở Đông Dương và Việt Nam, qua vụ án Henri Martin (1927-2015) và Raymond Dien, sinh năm 1929, đến nay vẫn được nhắc lại. Chuyện là năm 1945, thủy thủ Henri Martin, cựu chiến sĩ kháng chiến chống phát xít Đức, được điều sang Việt Nam, ông tưởng rằng để đánh phát xít Nhật. Nhưng thực tế, quân Nhật đã bị tước vũ khí, còn quân Pháp lại bắn giết người dân xứ này. Ông quay về Pháp, phát động phong trào tố cáo nhà cầm quyền Pháp, tạo nên một phong trào phản chiến mạnh mẽ. Tháng 3-1950, ông bị bắt, bị kết tội xúc phạm tinh thần Pháp, phá hoại… và bị kết án 5 năm tù. Dư luận Pháp, nhất là giới trí thức và văn nghệ sĩ phản đối rầm rộ nên ông được trả tự do giữa năm 1953… Tháng 1-1950, bà Raymond Dien tham gia cuộc biểu tình ở nhà ga, nơi một đoàn tàu chở xe bọc thép và quân trang, quân dụng cho đội quân xâm lược Pháp ở Đông Dương sắp chuyển bánh. Bà cùng một số người nằm chắn ngang đoàn tàu. Chỉ bà bị bắt và bỏ tù, vì bà là cộng sản… Raymond Dien và Henri Martin từ đó hoạt động chống thực dân và chiến tranh phi nghĩa không mệt mỏi. Họ không chỉ được nhân dân Pháp xưng tụng và tri ân, ví dụ Raymon Dien được người Nga dựng tượng…

Sau hai tờ báo nói trên, Madeleine Riffaud trở thành phóng viên Báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp. Bà từng sang Algeria nhiều đợt, bị ám sát hụt nhiều lần, đã cống hiến lớn lao cho công cuộc giành độc lập của đất nước này. Duyên nợ của bà với Việt Nam thì lớn hơn nhiều. Đầu những năm 70 của thế kỷ 20, sức khỏe sụt giảm, bà vào làm hộ lý tại một bệnh viện ở Paris. Tại đó, bà lau chùi nhà cửa, thu giặt khăn đệm, quần áo bệnh nhân, nắm tay người bệnh nặng, ghi lại những lời trối trăng, vuốt mắt cho người vừa chết… Tình người và tấm lòng của bà kết tinh vào Đồ vải bệnh nhân ban đêm, một cuốn sách khác thường. Không phải bỗng dưng lần in đầu vào năm 1975 đã bán được một triệu bản và tái bản liên tục cho tới hôm nay. Xác thực và rung động tới trào lệ. Ấn tượng nhất là, dù thù lao “bé mọn”, bị thờ ơ và quên lãng, các nhân viên y tế vẫn tận tụy với những đồng loại đang cần tới họ. Vượt lên tất cả những gì chưa đẹp là sự đồng cảm, sẻ chia và yêu thương thực lòng-giá trị nhân bản cốt tử vẫn chan chứa ở nơi tưởng chỉ còn tang thương và chết chóc. Thơ, truyện, ký sự, tiểu luận của bà-chưa cần điểm tới nguyên tác phẩm như ghi chép này, một tác phẩm văn chương kinh điển-cũng đủ liệt Madeleine Riffaud vào hàng những nhà văn đích thực, nhà văn mà xã hội không thể thiếu. Hiện nay, bà không còn sức leo lên tầng hai, nơi lưu giữ những kỷ niệm cuộc sống thực thụ của bà, trong đó có nhiều ảnh và thư của nhà văn Nguyễn Đình Thi! Chỉ khi bọn trẻ tới, bà mới lên thăm lại. Bà sinh hoạt ở tầng một. Ngày nào cũng phải có một bông hồng. Chiều nào cũng gọi điện hay vui vẻ trả lời người dân, người thân, bạn hữu. Sẵn sàng tham dự các sự kiện của thủ đô, của chính phủ, của các hội đoàn, như một cách san sẻ niềm vui, lạc quan và tin tưởng.

Mới đây, bà tâm sự: “Nhiều dấu hiệu cho thấy những thời đen tối có thể quay lại: Phân biệt chủng tộc, thù hận, khủng bố… Chúng ta chỉ có thể hóa giải chúng bằng cách ngồi lại với nhau, cùng tìm một con đường. Như Paul Eluard từng nói: Chúng ta không được phép khiến cho nhân dân thất vọng. Cần hiến thân cho cuộc sống đến muôn đời. Tinh thần kháng chiến là vậy”. Nhiều cuộc phỏng vấn, phim ảnh, chương trình truyền hình, sách vở... dành cho Madeleine Riffaud, nhà kháng chiến chống phát xít trẻ nhất, “bà lớn” của nước Pháp, nhà báo gạo cội, nhà văn của đời thường, công dân Pháp mẫu mực. Cảm động bậc nhất là phim tài liệu Ba cuộc chiến của Madeleine Riffaud (năm 2010), của Philippe Rostan, sinh năm 1964, đạo diễn người Pháp gốc Việt.

Cuộc chiến ở Việt Nam là thân thương nhất đối với Madeleine Riffaud. Độ sâu thẳm này hẳn đã được “kích hoạt” và mở rộng không ngừng nhờ nhà văn Nguyễn Đình Thi và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946, khi nghe giới thiệu về bà, Bác Hồ đã thốt lên: “Đây là cô gái Paris dũng cảm?... Con gái của ta, làm báo là một sự nghiệp thực sự. Bây giờ, con còn học tập. Khi nào thành nhà báo thuần thục, con hãy sang Việt Nam. Ta sẵn sàng đón tiếp con như con gái ta, bất cứ lúc nào!”. Năm 1954, bà sang Việt Nam để phản ánh với thế giới công cuộc xây dựng lại đất nước của chúng ta, được Bác tặng hai tấm lụa. Bà đem một tấm may một chiếc áo bà ba. Bà mặc chiếc áo như mình là người Việt (tấm lụa còn lại, bà may một chiếc áo như thế và mặc trong chuyến trở lại Việt Nam năm 1987). Bà muốn ở lại lâu dài. Song Bác Hồ bảo bà: “Con ạ, chúng ta không làm cách mạng ở xứ sở của người khác”. Hiểu đây như một nhiệm vụ chính trị, bà đành tạm biệt nơi mà bà đã khá tường tận. Đến mức, năm 1958, bà công bố Con mèo quái lạ, như một truyện cổ tích về người Việt Nam dí dỏm, khiêm nhường và thiết thực. Cuốn sách được tái bản hai lần.

Năm 1964, bà cùng nhà báo Australia danh tiếng Wilfred Burchett mà bà quen ở Triều Tiên, từ Campuchia bí mật sang miền Nam nước ta. Bà lăn lộn ở các chiến khu của Quân Giải phóng như một chiến sĩ đích thực, với áo lụa bà ba, tên gọi “chị Tám” thân mật. Năm 1965, tác phẩm Trong các bưng biền “Việt cộng” của bà, kết quả của chuyến đi, thành công vang dội, được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Bà gửi sách cho Bác Hồ với lời đề tặng: “Kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh, với lòng biết ơn sâu sắc và tình yêu sâu nặng mà con dành cho Người và dân tộc của Người, dân tộc sẽ chiến thắng những tên phát xít mới”. Bác đọc kỹ, ghi “chú ý” bên lề nhiều trang, gấp mép đánh dấu nhiều trang khác để dễ tìm đọc lại. Đây là những trang phơi bày đáng tin cậy kế hoạch giúp Ngô Đình Diệm bình định miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ. Tiếp đó, bà quay lại miền Bắc nước ta, ghi lại tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại, cũng như cuộc chống trả anh dũng của quân dân ta. Thật kinh ngạc, bà tỏ ra quả cảm lạ lùng giữa bom rơi đạn nổ. Bà là phóng viên nước ngoài duy nhất luôn luôn có mặt ở những nơi máy bay Mỹ đang trút bom xuống, như nhà ga, bệnh viện, trường học...

Năm 1967, bà kịp ra mắt tác phẩm Ở Bắc Việt Nam: Viết dưới bom đạn, như một thu hoạch “đi thực tế sôi nổi và hào sảng”. Đặc biệt xúc động là những trang bà viết về Bác: “Hầu sáng nào, tôi cũng muốn phỏng vấn Bác, nhưng không được. Tôi là nhà báo, lại bị phỏng vấn, phải liên tiếp trả lời Người về miền Nam Việt Nam mà từ lâu Người không tới được, về Đảng Cộng sản Pháp, về những người bạn Pháp và châu Âu của Người”. Năm 1968, bà dịch sang tiếng Pháp tiểu thuyết Mặt trận trên cao của Nguyễn Đình Thi. Báo Nhân đạo, ngày 21-9-1969, đăng bài của bà Bác ra đi giữa mùa thu, với nhiều kỷ niệm: “Nếu con muốn Bác vui, hãy gửi cho Bác những ca khúc của Maurice Chevalier mà Bác thường nghe hồi bên ấy, khi con chưa chào đời”. Bà đã gửi tặng đủ 6 đĩa của danh ca này, kèm một bưu thiếp:

Paris, ngày 15-7-1969

Madeleine Riffaud

Kính tặng Người mà cũng là Bác rất kính yêu của chúng tôi mấy đĩa hát kỷ niệm Paris ngày xưa (vì cháu còn nhớ cách đây hơn một năm khi cháu rất vui sướng được gặp Bác ở Hà Nội, Bác nói với cháu rằng Bác thích nghe những bài hát xưa của ông Chevalier (là người năm nay cũng đã 4 lần 20 tuổi nhưng vẫn khỏe như một thanh niên).

Với tất cả tình cảm chung thủy của người cháu ở xa của Bác.

Bác Hồ đã rất thích nghe những đĩa nhạc Madeleine Riffaud tặng. Nhiều đêm khuya, công việc đã xong, Người ngả lưng trên giường, mở đài bán dẫn, nghe các buổi phát thanh nước ngoài… Có ai nhắc Người đi ngủ, Người mỉm cười đáp: “Tôi đang nghe tiếng nói của nhân loại”.

Sau ngày Bác mất, Báo Nhân đạo cũng đăng bản dịch Di chúc của Người, Madeleine Riffaud tham gia dịch, hiệu đính và giới thiệu. Trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Paris, bà đội khăn tang, khóc nức nở, cúi lạy Người, như một con em Việt ruột đau chín chiều, vĩnh biệt người Cha vĩ đại…

NHẬT NGUYỄN