Ngày 30-4-1975, cả làng tôi không ai ra đồng. Tất cả quây quần dưới chiếc loa truyền thanh treo trên cây đa cao vống ở đầu làng, căng tai nghe từng thông báo về cuộc tiến công của bộ đội ta đánh vào sào huyệt cuối cùng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Khi đài phát bản tin đặc biệt, quân ta đã chiếm dinh Độc Lập, chính quyền ngụy tuyên bố đầu hàng, cả làng tôi vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Không ai bảo ai, nhà nhà mang cờ ra treo. Rồi mâm cơm thắp hương được bày lên, kính cáo tổ tiên rằng đất nước đã thống nhất, Nam-Bắc sum họp, hòa bình trở lại; rằng bom đạn sẽ không còn, chiến tranh lùi xa và người lính sẽ trở về bên gia đình.
Từ ngày ấy, những nhà có người ra trận bắt đầu ngóng tin con. Họ chờ một lá thư, một dòng nhắn gửi về làng để biết rằng người thân của mình còn sống sau khi cuộc chiến kết thúc. Những anh bộ đội lần lượt trở về, ba lô căng phồng sau lưng, anh nào cũng cài một con búp bê trên nóc ba lô dù chưa có con nhỏ. Con búp bê ấy thể hiện khát vọng hòa bình, hạnh phúc mà các anh mang theo trên suốt chặng đường từ chiến trường trở lại quê nhà.
Chú thím tôi cũng ngồi chờ mong tin người con trai là Vũ Đình Chiến. Một cuộc gọi, một lá thư... nhưng mãi vẫn không thấy. Trong khi bộ đội về làng đã nhiều, sự chờ đợi của chú thím ngày càng dài thêm, khiến nỗi nóng ruột thành mất ăn, mất ngủ.
Tôi và Chiến là con chú, con bác. Tôi hơn Chiến 5 tuổi nhưng hai anh em lại nhập ngũ cùng một ngày. Ngày 7-1-1967, dưới gốc cây gạo già nơi trụ sở UBND xã Cẩm Thượng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, 12 chàng trai của làng lên đường. Người làng tiễn chân, chú tôi-dáng nhỏ, hơi khom-đứng tựa vào gốc cây gạo xù xì gai ụ, trông chú như già đi trước thời gian.
Từ điểm tập trung, anh em tôi nhận quân trang rồi hành quân. Tàu hỏa toa đen thời chiến đưa chúng tôi từ ga tạm Cẩm Định vào ga Phủ Lý. Cả đêm cuốc bộ qua Chi Nê, Nho Quan thì đến Thành Thọ, Thạch Thành (Thanh Hóa). Tôi được biên chế vào Đại đội 3, Tiểu đoàn 25; còn Chiến vào Đại đội 1, Tiểu đoàn 26, đều thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn 338. Nghỉ một ngày, hôm sau, chúng tôi bắt đầu huấn luyện.
Thời chiến, mọi việc đều khẩn trương. Huấn luyện lính chiến chủ yếu ở những khoa mục thiết yếu, giản lược những thứ rườm rà. Kỹ nhất là hành quân dã ngoại. Cả tiểu đoàn mấy trăm con người hành quân xuyên ngày đêm, vòng vèo qua địa bàn Bá Thước (Thanh Hóa), nơi núi cao, rừng sâu. Chúng tôi đi theo lối của dân bản, có lúc lại cắt rừng, leo dốc như người Trường Sơn thực thụ. Trọng lượng mang vác phải từ 35 đến 40kg, thiếu quân trang thì bổ sung bằng đá, gạch, miễn đủ trọng lượng theo quy định. Những bước chân ngày ấy thành hành trang thật sự cho cuộc hành quân vào chiến trường sau này.
Ngày đi B cũng đến. Trước giờ xuất phát, anh em tôi ngồi cạnh nhau, động viên nhau hành quân đến đích. Chiến nhớ nhà, nhớ bố mẹ, nhớ các em. Tôi bảo Chiến: “Mấy năm hết chiến tranh, anh em mình sẽ gặp lại”. Chiến lặng lẽ nhìn cánh đồng lúa mới cấy của làng Bùi, nơi chúng tôi gắn bó những ngày huấn luyện.
Tiểu đoàn của Chiến lên đường ngày 21-7-1967; đơn vị tôi đi sau một ngày. Chúng tôi hành quân bộ dọc Trường Sơn. Cứ 4-5 ngày lại dừng một ngày để bổ sung gạo và thực phẩm. Một lần gặp Chiến trên đường, em thông báo với tôi vừa nhận được thư của bố mẹ, nhưng thư gửi đã 3 tháng mới đến. Tôi dặn Chiến viết thư ngay về nhà báo tin vẫn khỏe. Rồi anh em lại chia tay nhau, tiếp tục hành quân.
Một tối khác, chúng tôi gặp nhau. Chiến nói đơn vị cậu ấy sẽ vào Quân khu 5. Hai anh em ôm nhau thật chặt trên đỉnh Trường Sơn. Chiến rẽ xuống Quảng Ngãi, Bình Định; tôi đi tiếp vào miền Đông Nam Bộ. Tôi không ngờ cái ôm ấy lại là lần cuối cùng...
* * *
Ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch phản kích dữ dội, mở nhiều trận càn. Ngày 14-9-1968, chúng dùng trực thăng đổ quân chiếm kho hàng H9-nơi dự trữ vũ khí, thực phẩm cung cấp cho lực lượng ta ở Phước Long và Long Khánh. Đơn vị tôi nhận nhiệm vụ đánh giải phóng kho hàng. Tiểu đoàn giao Đại đội 2 đánh chính diện; tôi dẫn 40 chiến sĩ vòng đánh phía sau.
Rừng um tùm, tầm nhìn hạn chế. Chúng tôi chỉ nghe tiếng súng phía Đại đội 2 để xác định hướng tiến. Khi phát hiện địch, khoảng cách chỉ còn chừng 30m. Hai bên cùng nổ súng. Khẩu M79 của địch nổ đầu nòng, lửa lóe lên, khói đặc kín rừng. Tôi siết cò, hai viên đạn lao đi, rồi tiếp tục nhả đạn theo bản năng của người lính trận dạn dày. Địch bắn trả dữ dội. Một loạt AR-15 quét qua ụ mối, 1 viên xuyên bắp tay trái tôi. Máu nóng rát nhưng tôi vẫn bám súng, cho đến khi đầu choáng ong ong, cảnh rừng xoay cuộn và màn đêm sập xuống.
Tôi tỉnh dậy sau hai ngày hai đêm. Bác sĩ Hai Võ, Viện trưởng Viện K50 tiền phương, người trực tiếp phẫu thuật đứng cạnh giường, mỉm cười nhẹ nhõm. Hai ngày sau, tôi được chuyển về Viện K40 hậu phương. Điều trị 6 tháng, tôi được chuyển đến trại an dưỡng thương binh nặng miền Đông Nam Bộ (C3T6). Một năm sau, sức khỏe hồi phục, tôi xin đi công tác tuyến sau 3 năm rồi được điều ra Bắc vào đầu năm 1975, khi toàn quân chuẩn bị tổng tiến công, giải phóng miền Nam.
Hòa bình được 3 tháng mà vẫn không thấy tin Chiến. Gia đình tôi và chú thím như có lửa đốt trong lòng. Một hôm, đoàn cán bộ mặc áo lính cùng cán bộ địa phương vào nhà. Họ ngồi lặng. Cán bộ tỉnh đội nói lời khó nói: Đồng chí Vũ Đình Chiến đã hy sinh. Anh thiếu tá mắt đỏ sọng, giọng nghẹn lại, thông báo Chiến hy sinh ngày 21-4-1975, trong trận giải phóng thị xã Xuân Lộc. Đơn vị đã làm thủ tục báo tử gửi về địa phương.
Đất nước thống nhất, niềm hân hoan, rạng rỡ trên từng khuôn mặt. Không ai muốn mang tin đau thương vào những ngày vui, nhưng cũng không thể để gia đình chờ đợi thêm.
Cả nhà tôi òa khóc. Với tôi, nỗi đau hòa trong thương nhớ. Chiến đã đi trọn 8 năm chiến trận, chỉ còn 9 ngày nữa là đất nước giải phóng. Vậy mà, sao em không vượt qua được...
Đã nửa thế kỷ kể từ ngày lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc dinh Độc Lập. Bố mẹ tôi, chú thím tôi đều đã về với tổ tiên. Tôi cũng đã ngoài tuổi “xưa nay hiếm”. Nếu còn, Chiến cũng đã đến tuổi ấy. Nhưng ký ức Trường Sơn, ký ức cái ôm cuối cùng của anh em tôi vẫn còn nguyên trong tim. Đời người lính chiến giống như bông gạo đầu làng: Đỏ thắm, kiêu hãnh trên cành khẳng khiu, mong manh; khi rụng xuống đất quê vẫn còn nguyên cánh, như chưa từng tàn phai.
Bút ký của VŨ NGỌC THƯ