Tháng 4-1972, khóa 1 Trường Đại học Quân y (nay là Học viện Quân y), hệ dài hạn tốt nghiệp. Khóa y-dược dài hạn đầu tiên ra trường giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Ra trường, khóa chúng tôi hầu hết được phân công về các đơn vị phục vụ chiến đấu. Tôi được phân công về Khoa Truyền nhiễm, Viện Quân y 103 (nay là Bệnh viện Quân y 103) và ngay sau đó được cử đi theo khóa 3 vào chiến trường. Nhóm chúng tôi do bác sĩ Vũ Đình Vinh, Chủ nhiệm Bộ môn Hóa Sinh làm nhóm trưởng. Tôi và 5 học viên khóa 3 nhận lệnh vào phục vụ tại Đội Điều trị 12, hoạt động trong khu vực cuối Quảng Bình đầu Quảng Trị.
Năm 1972, Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt nên chúng tôi phải hành quân đêm. Đêm đầu tiên chúng tôi hành quân bộ đến ga Phủ Lý thì trời gần sáng. Theo hướng dẫn của giao liên, chúng tôi vào nghỉ trong trạm chờ đến 20 giờ thì lên tàu đến ga Tam Điệp, sau đó đi bộ đến binh trạm ở Hà Trung, Thanh Hóa nghỉ. Từ đêm thứ ba, chúng tôi được hành quân bằng ô tô. Theo sắp xếp của binh trạm, mỗi xe chở từ 30 đến 34 người. Giữa đêm hôm đó, chúng tôi bắt đầu đi vào Đường 15A của con đường Trường Sơn huyền thoại. Cung đường này có dốc “bò lăn”, ai đi qua một lần sẽ nhớ mãi. Xe cứ lảo đảo qua từng mô đất, bò qua các hố bom, lúc lại chồm lên, giật như con ngựa bất kham.
Đến binh trạm trong khu rừng thuộc địa bàn huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An), chúng tôi được nghỉ hai ngày để lấy lại sức. Đêm ấy, chúng tôi mắc võng cạnh suối. Khoảng nửa đêm, bỗng trời nổi gió mạnh, sấm chớp liên hồi và chừng nửa giờ sau mưa ầm ầm như trút. Quần áo và người ướt sũng, phải khó khăn lắm chúng tôi mới giữ được cho ba lô khỏi ướt. Mưa cứ như thế kéo dài mãi không ngớt. Nước suối lên nhanh, chúng tôi phải di chuyển lên trên cao. Đến gần sáng, vừa rét, vừa mệt, mọi người thiếp đi. Khi trời sáng rõ, tôi mở mắt ra thì nước đã ngập trắng rừng. Nơi chúng tôi mắc võng ban đầu giờ là dòng suối cuồn cuộn chảy.
    |
 |
Viện Quân y 103 tiễn các y, bác sĩ lên đường tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh tư liệu
|
Chiều hôm đó, chúng tôi vào binh trạm lĩnh gạo và thịt hộp để bắt đầu hành quân bộ. Gần chục ngày không được ăn rau, ngoài mỗi bữa một hộp thịt cho vào nửa soong nước, thêm ít muối mà vẫn thấy ngon lành. Chúng tôi được giao liên dẫn vượt qua những khu rừng già và đêm ấy nghỉ lại nhà dân thuộc huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh). Vùng này rừng thưa và rất nhiều cọ. Người dân ở đây đều làm nhà âm cả, hệ thống hầm cũng vững chãi. Chỗ nhà âm tốt nhất chủ nhà đều dành cho bộ đội. Đến khoảng 21 giờ, mọi người nghe tiếng máy bay nhiều và lạ. Đang bàn tán thì bỗng một loạt bom nổ rền vang và kéo dài chưa từng thấy. Hết loạt thứ nhất, ngừng khoảng 10-15 giây lại tiếp loạt thứ hai, loạt thứ ba... Mặt đất rung lên, tất cả như nín thở. Nhưng sau loạt thứ ba thì im lặng; màn đêm lại trùm xuống yên ả.
Sáng hôm sau, chúng tôi được thông báo là lần đầu Mỹ dùng máy bay B-52 đánh ra Hà Tĩnh. Cũng từ ngày đó, chúng tôi bắt đầu làm quen với việc bom B-52 rải thảm. Cung đường từ Đức Thọ, Hà Tĩnh đến Quảng Trạch, Quảng Bình, chúng tôi lại được hành quân bằng ô tô. Các ngầm suối ở đây đều là những trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ.
Tôi nhớ một lần xe chúng tôi đang đi xuống ngầm thì máy bay ném đúng vào dốc lên phía bên kia suối. Một xe đi trước trúng bom. Đoạn đường tiếp theo xe phải băng qua nhiều bãi bom B-52, qua những hố bom vừa được thanh niên xung phong san lấp, cảm giác như đất vẫn còn nóng. Có đoạn xe đi qua đường ngầm, bám vào các cọc tiêu, bò dưới nước hàng cây số cứ như đi ca nô. Vào tới địa phận Quảng Bình, sự ác liệt như tăng hẳn lên. Chúng tôi về binh trạm ở cuối Quảng Trạch được cán bộ binh trạm phổ biến đoạn này địch đánh phá ác liệt cả trên đường và dưới sông. Đã có nhiều sà lan bị địch phát hiện và bị đánh chìm nơi đây.
Đúng 20 giờ, chúng tôi có mặt ở bến. Chiếc sà lan to và cũ phủ bạt xanh được một ca nô kéo tới. Khoảng 70-80 người lên theo thứ tự. Đến khoảng 22 giờ, chiếc sà lan đi được chừng 6-7km thì bỗng có tiếng máy bay trên đầu. Ngay lập tức một dãy pháo sáng. Cả một vùng sáng hơn ban ngày. Mọi người đều nghĩ địch chắc chắn đã phát hiện ra chúng tôi. Tôi và mấy anh em trong nhóm bàn nhau nhảy xuống sông bơi vào bờ. Ngay lúc đó, tiếng máy bay gầm sát trên đầu rồi chúng phóng 2-3 quả tên lửa vào đoàn xe tải trên đường. Lửa trên hai chiếc xe tải bốc cháy ngùn ngụt. Một chiếc máy bay khác lao xuống thả một loạt bom nữa rồi bay đi xa dần. Ít phút sau, pháo sáng tắt, màn đêm đen lại trùm xuống. Chúng tôi thoát chết trong gang tấc. Tới Ngã Ba Đồn, ca nô kéo sà lan ngược dòng cho tới 4 giờ sáng thì cập bến. Vì ít người nên chúng tôi được nghỉ ngay tại làng cát nhỏ Bảo Ninh, cạnh sông Nhật Lệ, nơi có bến đò Mẹ Suốt.
Bắt đầu từ đây, chúng tôi hoàn toàn đi bộ. Theo giao liên, đêm đó chúng tôi hành quân đến binh trạm ở làng Cự Nẫm. Đây là cửa ngõ vào Nam, ra Bắc, là trạm giao liên-điểm dừng chân cuối cùng của bộ đội trước khi vào chiến trường. Làng Cự Nẫm còn có tên gọi là “làng một đêm”, bởi từ năm 1969, các đơn vị đều được nghỉ một đêm ở đây trước khi ra mặt trận hoặc thương binh, bệnh binh chuyển ra Bắc cũng nghỉ tại đây một đêm và lĩnh nhu yếu phẩm.
Đêm ấy cả nhóm tôi được bố trí ở vào một nhà. Nhà chính được nhường cho chúng tôi, còn gia chủ thì ngủ ở nhà bếp. Trạm Cự Nẫm như một tổng kho. Chúng tôi được ăn cơm ngon, sau đó lĩnh thịt hộp và mỗi người hai bánh lương khô. Cũng tại đây, chúng tôi được phổ biến kinh nghiệm vượt phà Long Đại. Đây là điểm đánh phá ác liệt nhất trên đường Trường Sơn. Nơi đây suốt ngày đêm không lúc nào ngừng tiếng bom đạn. Đế quốc Mỹ biết rất rõ là hầu như tất cả quân và vũ khí, trang bị của ta vào, ra đều phải qua phà này. Do vậy hết máy bay ném bom là pháo ngoài biển Cửa Việt lại câu vào; chúng cứ thay nhau trực chiến ở đây. Kinh nghiệm qua phà này là khi dừng bom nổ thì chạy thật nhanh qua bãi bom. Bởi vì sau mỗi tốp máy bay ném bom thì 10-15 phút sau mới có tốp khác. Chúng tôi chạy thật nhanh qua bãi bom chừng nửa cây số mà tim đập cứ như muốn bắn ra ngoài; phần do mệt, phần do lo. Xuống phà rất nhanh và phà cũng kéo qua nhanh vì sông sâu nhưng hẹp. Qua phà an toàn, chúng tôi tiếp tục chạy qua bãi bom bên này sông. Giao liên tiếp tục dẫn chúng tôi đi vào huyện Quảng Ninh (Quảng Bình).
Chúng tôi đi bộ ban ngày dưới tán rừng, nhưng mỗi khi qua những khu đồi chỉ có cây nhỏ lúp xúp và cỏ tranh thì phải vừa đi vừa chạy; bởi vì hầu như không lúc nào vắng tiếng máy bay. Gần tối hôm đó, chúng tôi đến trạm đón tiếp của Đội Điều trị 12-địa chỉ chúng tôi cần tới tại xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh.
Sáng hôm sau, đồng chí Đội phó tiếp chúng tôi, nói về nhiệm vụ của Đội là trực tiếp nhận cứu chữa thương binh chuyển từ Mặt trận Quảng Trị ra và thường xuyên sẵn sàng đi chuyển thương từ đó về. Là vị trí tiền tiêu như vậy mà nơi đây luôn gánh chịu những trận bom hủy diệt. Tại ngã ba Rào Đá, cách Đội không xa, chẳng có lúc nào ngớt tiếng bom. Chúng tôi được Đội cho nghỉ chờ 3 ngày trước khi phân về các ban. Hôm sau, máy bay ném bom trúng vào đội hình của Đội. May mà hôm đó mọi người đều kịp xuống hầm nên không có thương vong.
Sau 3 ngày nghỉ, tôi cùng 2 học viên khóa 3 được phân công về Ban Nội. Chúng tôi lại hành quân bộ về xã Hoa Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Ban Nội có một hầm mổ riêng, còn cán bộ, nhân viên ở trong nhà dân. Ở đây tất cả mọi sinh hoạt đều ở dưới hầm và nhà âm. Gọi là Ban Nội nhưng nhiệm vụ của chúng tôi chủ yếu là băng bó, cắt lọc, xử trí, cố định lại các vết thương, sau đó làm giấy chuyển thương về tuyến sau. Do vậy, đây thực chất là Ban Ngoại nhẹ. Tại đây, chúng tôi cũng thường xuyên phải mổ để cầm máu hay cắt cụt chi khẩn cấp cho thương binh, bệnh binh. Tôi được bố trí về ở nhà anh Hạp, Chủ tịch UBND xã Hoa Thủy. Anh chỉ hơn tôi vài ba tuổi nên anh em thường nói chuyện vui. Anh thường mời tôi ăn cơm cùng gia đình. Bà con ở đây rất tốt bụng, hết lòng yêu quý, chở che bộ đội...
Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tháng 12-1975, tôi trở về miền Bắc, tiếp tục công tác tại Bệnh viện Quân y 103 và Học viện Quân y. Năm tháng dần qua, nhưng ký ức về con đường ra trận ấy vẫn vẹn nguyên trong tim mỗi chúng tôi-những người lính quân y, đã đi qua chiến tranh bằng tất cả niềm tin và trách nhiệm thiêng liêng với Tổ quốc.
GS, TS NGUYỄN VĂN MÙI, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Quân y 103