Di sản tri thức đồ sộ lưu ngàn đời
Nhà bác học Lê Quý Đôn, tên thật là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh tại làng Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam hạ (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), trong một gia đình có truyền thống khoa, bảng. Sớm được tiếp xúc với nền giáo dục Nho giáo nghiêm cẩn, từ nhỏ Lê Quý Đôn đã bộc lộ tư chất thông minh xuất chúng. Người đời tương truyền, năm lên 2 tuổi ông đã biết chữ, 5 tuổi đã đọc được "Kinh Thi" và 10 tuổi đã am hiểu lịch sử. Mỗi ngày, ông đọc thuộc hàng chục cuốn sách, một khối lượng kiến thức khổng lồ khi soi chiếu với người bình thường.
Dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện về trí tuệ, trí nhớ của ông khi giúp người chủ quán chép lại được toàn bộ danh sách người nợ tiền do sổ bị cháy. Ở một khía cạnh khác, Lê Quý Đôn cũng vang danh tài tức khẩu thành thơ. Trong một lần khách đến thăm nhà đã ra đề bài: “Rắn đầu biếng học” và phải làm thơ Nôm, thể thất ngôn bát cú. Nghiền ngẫm một hồi, Lê Quý Đôn ứng khẩu đọc: Chẳng phải liu điu cũng giống nhà/ Rắn đầu biếng học lẽ không tha/ Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ/ Nay thét mai gầm rát cổ cha/ Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo/ Lằn lưng cam chịu vệt dăm ba/ Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học/ Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Bài thơ độc đáo khi Lê Quý Đôn đã dùng tên các loại rắn để mở đầu các câu thơ, đáp ứng đúng yêu cầu đề bài, tuân thủ đúng niêm luật của thể thơ thất ngôn bát cú. Thêm nữa, việc lồng ghép nước Trâu, nước Lỗ là quê hương của Khổng Tử và Mạnh Tử, ngụ ý rằng sẽ siêng học theo đúng đạo Khổng, Mạnh. Bài thơ được xem như là giai thoại vô tiền khoáng hậu và lưu truyền bao đời nay.
    |
 |
Tượng danh nhân Lê Quý Đôn tại Bảo tàng Văn học Việt Nam. Ảnh: NGÂN PHƯƠNG
|
Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn cùng bố lên kinh đô Thăng Long để thỏa chí “người học hành”. Đã thông minh còn siêng năng, con đường khoa bảng của ông vô cùng rực rỡ khi đỗ đầu cả 3 kỳ thi hương, hội, đình, trở thành một trong số ít người đạt danh hiệu “tam nguyên” trong lịch sử nước nhà. Trên con đường làm quan, dù đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng, nhưng dấu ấn lớn nhất ông để lại chính là sự nghiệp nghiên cứu và sáng tạo tri thức.
Thống kê tác phẩm của Lê Quý Đôn lên tới hơn 40 bộ sách nghiên cứu, khảo cứu và biên soạn thuộc các lĩnh vực sử học, địa lý, văn học, triết học, kinh tế, giáo dục và thư mục học. Ông đi nhiều, mỗi nơi, bước chân Lê Quý Đôn đặt xuống, đều được khảo sát thực địa kỹ lưỡng, ghi chép tỉ mỉ, đối chiếu tư liệu, thể hiện tư duy khoa học hiện đại.
Về sử học, Lê Quý Đôn đã biên soạn và để lại nhiều công trình tiêu biểu như: “Đại Việt thông sử”; “Phủ biên tạp lục”; “Kiến văn tiểu lục”; “Bắc sử thông lục”; “Lê triều công thần liệt truyện”... Đáng chú ý, cuốn “Phủ biên tạp lục”, bản tường trình chi tiết phản ánh đời sống tự nhiên, kinh tế, phong tục và đặc biệt là mô tả tỉ mỉ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam. Công trình này là nguồn tư liệu có giá trị lịch sử và pháp lý quan trọng cho đến nay, góp phần khẳng định chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Các vấn đề triết học cũng được ông nghiên cứu và để lại nhiều tác phẩm quan trọng như: “Thư kinh diễn nghĩa”, “Dịch kinh phu thuyết”, “Xuân thu lược luận”, “Quần thư khảo biện”. Ông phát triển học thuyết “lý-khí” thể hiện tư duy biện chứng, cho rằng vũ trụ hình thành từ “khí hỗn nguyên” vận động, sinh ra âm-dương rồi muôn vật. Trong những tác phẩm của Lê Quý Đôn thể hiện một vũ trụ quan và nhân sinh quan có những yếu tố duy vật, lành mạnh, tích cực.
Lúc sinh thời, học giả nghiên cứu văn hóa Việt Nam Vũ Khiêu từng nhận định, trong lĩnh vực triết học, khi xem xét đến quan điểm duy vật và biện chứng, cần chú ý tới những suy tư về bản thể luận và nhận thức luận của Lê Quý Đôn. Bởi trong quá trình tiếp thu một cách toàn diện các trào lưu tư tưởng từ Chu Tử và Khổng-Mạnh đến Tống Nho, Lê Quý Đôn đã hình thành cho mình một hệ thống tư tưởng sâu sắc, phản ánh tầm vóc triết học của ông.
Ở lĩnh vực văn học, ông sáng tác và sưu tầm nhiều tác phẩm Hán-Nôm, công trình nổi bật có thể nhắc đến là sách sưu tập thi văn như: “Toàn Việt thi lục”, ghi chép chọn lọc khoảng 2.000 bài thơ của 175 tác giả từ thời Lý-Trần đến đời Lê; “Quế Đường thi tập”; “Quế Đường văn tập”; “Quế Đường di tập”; “Phú Lê Quý Đôn”. Bên cạnh đó, ông được xem là người đặt nền móng đầu tiên trong lĩnh vực thư mục học. Chương Nghệ văn chí trong “Đại Việt thông sử” là thư mục tổng hợp đồ sộ nhất thời trung đại, liệt kê 115 bộ sách Hán-Nôm, phân loại và bình luận giá trị từng tác phẩm, thể hiện tư duy hệ thống và tinh thần lưu giữ tri thức.
GS, TS Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) khẳng định, các tác phẩm của Lê Quý Đôn đồ sộ, đóng góp cho di sản dân tộc từ văn hóa, giáo dục và nhiều chuyên ngành khác là vô cùng to lớn.
Đặc biệt, Lê Quý Đôn là nhà bác học hiếm hoi của thời phong kiến khi đã soạn bộ sách “Vân đài loại ngữ”, ví như bách khoa thư đầu tiên của Việt Nam. Tác phẩm tổng hợp tri thức tự nhiên, xã hội, ngôn ngữ, y học, nông học, địa lý... với hơn 550 tài liệu trích dẫn, trong đó có cả sách châu Âu dịch sang Hán văn. Các công trình của Lê Quý Đôn thể hiện tư cách người học rộng, biết sâu, luôn hướng tới “học để hành”, phụng sự quốc gia và nhân loại.
    |
 |
Trang 1, 2 quyển 1 của bộ sách “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
|
Khẳng định vị thế văn hóa Việt Nam
Ba thế kỷ trôi qua, các giá trị học thuật của Lê Quý Đôn vẫn giữ nguyên giá trị đối với khoa học Việt Nam. Đặc biệt hơn, các giá trị này càng được khẳng định và thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ khi UNESCO và các nước thành viên thông qua nghị quyết tôn vinh danh nhân Việt Nam Lê Quý Đôn tại Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng UNESCO.
Theo PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, tầm vóc, trí tuệ của danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn được khẳng định và nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, đồng thời cho thấy sự cần thiết giới thiệu rộng rãi hơn nữa di sản Lê Quý Đôn đến với thế giới.
PGS, TS Nina V.Grigoreva, Đại học HSE, St. Petersburg, Liên bang Nga nhận định: “Lê Quý Đôn là vị quan, nhà trí thức và nhà bác học lớn thời Lê Trung Hưng. Ông sống, hoạt động và sáng tác trong những thập niên giữa thế kỷ 18 mà trong lịch sử thế giới được gọi là thế kỷ Khai sáng. Ông là người đương thời với những nhân vật văn hóa và khoa học vĩ đại như: Montesquieu, Voltaire (Pháp), Hume (Anh), Lomonosov (Nga)... Với những cống hiến và qua các tác phẩm của nhà bác học Lê Quý Đôn cho thấy ông là nhà khai sáng hàng đầu của Việt Nam”.
GS, TS Shimizu Masaaki, Đại học Osaka, Nhật Bản cũng đã có những đối chiếu giữa Lê Quý Đôn và nhà Quốc học Nhật Bản Motoori Norinaga: “So sánh với phương pháp nghiên cứu của Motoori Norinaga để quy ra các điểm chung và khác biệt giữa hai học giả cùng thời ở Việt Nam và Nhật Bản, Lê Quý Đôn là người Việt Nam đầu tiên đã coi ngôn ngữ, văn tự là đối tượng để suy nghĩ, nhận thức. Ông là người đề xuất phương pháp nghiên cứu tiếng Việt đầu tiên trong lịch sử khoa học Việt Nam”.
Việc UNESCO thông qua Nghị quyết vinh danh và kỷ niệm 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những giá trị khoa học, văn hóa và giáo dục của Việt Nam nói chung, cũng như những đóng góp xuất sắc của Lê Quý Đôn nói riêng./.