Từ hương sư trở thành tướng xe tăng
Đào Huy Vũ, tên khai sinh là Đào Hữu Vỹ, sinh ngày 13-10-1924, trong một gia đình nông dân tại làng Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, TP Hà Nội (nay là thôn Xuân Trạch, xã Đông Anh, TP Hà Nội). Dù hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông vẫn được bố mẹ cho ăn học đến hết bậc tiểu học, sau đó theo học lớp bổ túc sư phạm và trở thành hương sư tại chính quê nhà.
Tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, có học thức và được giác ngộ cách mạng từ sớm, năm 1943, ông tham gia Thanh niên cứu quốc tại xã Xuân Canh. Ông tích cực hoạt động tuyên truyền cách mạng bằng cách rải truyền đơn, sáng tác ca dao, hò vè đăng Báo Cứu quốc và tham gia tổ chức tự vệ.
Ngày 20-8-1945, trong khí thế sục sôi của Cách mạng Tháng Tám, ông cùng tiểu đội tự vệ tấn công trại lính Nhật, tiến vào huyện đường Đông Anh, góp phần giành chính quyền về tay nhân dân. Chính trong thời khắc ấy, ông được chỉ định làm Trung đội trưởng Trung đội Giải phóng quân huyện Đông Anh và chính thức bước vào quân ngũ. Từ đây, ông lấy tên mới là Đào Huy Vũ, đánh dấu chặng đường binh nghiệp đầy vẻ vang.
    |
 |
Thiếu tướng Đào Huy Vũ (1924-1986).
|
Dù chưa từng được đào tạo chính quy về quân sự, nhưng với sự thông minh và khả năng tự học xuất sắc, ông đã huấn luyện đơn vị của mình nắm vững kiến thức chính trị, quân sự cơ bản. Trung đội do ông chỉ huy đã phục kích, tiêu diệt và bắt sống lính Nhật, tạo tiếng vang lớn trong vùng.
Từ những ngày đầu bảo vệ Thủ đô, ông tiếp tục tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Hòa Bình, Quang Trung, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Tháng 10-1953, ông trở thành cán bộ cấp trung đoàn, được điều về Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 8-1956, ông được cử làm trưởng đoàn cán bộ đi nước ngoài học tập về xe tăng. Đến tháng 10-1959, Trung đoàn xe tăng 202-đơn vị xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập, ông trở thành Trung đoàn trưởng, trực tiếp chỉ huy chiếc xe tăng T-34 mang số hiệu 100. Khi Binh chủng Tăng thiết giáp được thành lập năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh, rồi quyền Tư lệnh. Từ đó, ông được đồng chí, đồng đội trìu mến gọi là “người lính xe tăng số 1” của Quân đội ta.
Không ngừng học hỏi, nghiên cứu sáng tạo
Là người có vốn Hán học khá sâu, đồng chí Đào Huy Vũ luôn tâm niệm phải không ngừng học tập để đáp ứng yêu cầu đối với người chỉ huy một binh chủng mới. Không chỉ học ở trường lớp, ông còn đặc biệt chú trọng tự học, kể cả trong thực tiễn. Dù đi đâu, làm gì, ông luôn mang theo sách chuyên môn hoặc sách ngoại ngữ để tự học. Nhờ nỗ lực ấy, chỉ hai năm sau khi về nước, ông đã có thể đọc hiểu tài liệu kỹ thuật, chiến thuật bằng tiếng Nga.
Từ kinh nghiệm trận mạc kết hợp với tri thức tích lũy, ông nhận định rằng tác chiến xe tăng ở Việt Nam không thể sao chép máy móc cách đánh của nước bạn mà cần sáng tạo phù hợp với đặc điểm địa hình, tình hình địch và đường sá trong nước. Cùng với đồng đội, ông xây dựng nên cách đánh đặc thù cho xe tăng Việt Nam, được thực chứng qua các cuộc diễn tập và chiến đấu thực tế, từ trận Tà Mây-Làng Vây năm 1968 đến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Bám sát chiến trường, sống và chiến đấu cùng bộ đội
Dù là người đứng đầu Binh chủng nhưng ông không ngồi yên nơi sở chỉ huy mà thường xuyên xuống đơn vị cơ sở, ra chiến trường để nắm tình hình, đúc rút kinh nghiệm và điều chỉnh chiến thuật. Đầu năm 1967, ông trực tiếp dẫn đoàn cán bộ đi nghiên cứu chiến trường khu phi quân sự. Tháng 3-1968, ông cùng Đại đội 6 vào Đường 9 tăng cường cho Tiểu đoàn 198 và khảo sát khu vực Khe Sanh. Tháng 12-1969, ông cùng Tiểu đoàn 195 sang Lào hỗ trợ chiến đấu tại Cánh đồng Chum. Trong chiến dịch này, đầu năm 1970, bom Mỹ đánh trúng sở chỉ huy khiến ông bị thương, mất một con mắt.
Năm 1972, trong cuộc tiến công chiến lược, hai Trung đoàn Tăng thiết giáp 202 và 203 chiến đấu ở hướng chủ yếu Quảng Trị. Được sự đồng ý của cấp trên, ông chỉ huy Bộ tư lệnh tiền phương phối hợp với Bộ tư lệnh Mặt trận B5, tham mưu và trực tiếp xử lý nhiều tình huống phức tạp. Một trong những sáng kiến đáng chú ý là bí mật đưa xe tăng xuống công sự bắn để đối phó với chiến thuật "Trâu rừng" của địch. Sau chiến dịch này, ông được cử đi học tại Liên Xô và đến tháng 12-1974 chính thức được cấp trên bổ nhiệm làm Tư lệnh Binh chủng.
Mùa xuân năm 1975, ông cùng Bộ tư lệnh Tăng thiết giáp tiền phương sát cánh với Bộ tư lệnh Chiến dịch Huế-Đà Nẵng và cánh quân Duyên hải-cánh quân phía Đông trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhờ tham mưu kịp thời và chính xác, lực lượng tăng thiết giáp được sử dụng hiệu quả cao. Trong trận tiến công Phan Rang ngày 16-4-1975, xe của ông suýt rơi vào tay tàn quân địch đang rút chạy, nhưng may mắn thoát hiểm nhờ lái xe Nông Đức Nam xử lý linh hoạt. Ông cũng là người có nhiều đóng góp trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Từ thực tiễn chiến đấu, ông đúc rút nhiều bài học quý báu, góp phần hoàn thiện nghệ thuật sử dụng tăng thiết giáp ở Việt Nam.
Những năm cuối sự nghiệp, ông giữ cương vị Chủ nhiệm Khoa Tăng thiết giáp tại Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng), với quân hàm Thiếu tướng. Tại đây, ông tiếp tục truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho thế hệ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy kế cận. Ngày 11-12-1986, ông từ trần sau thời gian chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong lòng đồng đội, người thân và bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ tăng thiết giáp.
Cuộc đời người lính xe tăng, Trung đoàn trưởng đầu tiên của Bộ đội xe tăng-Đào Huy Vũ-là tấm gương tiêu biểu về phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” của Bộ đội Cụ Hồ.
Đại tá, nhà văn NGUYỄN KHẮC NGUYỆT