Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng là người tạo cảm hứng sáng tác để nhiều nhà thơ cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng, trong đó đặc biệt phải kể đến nhà thơ Tố Hữu-người đồng chí, người bạn, người đồng hương thân thiết của ông.
Trong hồi ký “Nhớ lại một thời”, nhà thơ Tố Hữu kể lại những năm đầu tham gia hoạt động cách mạng, nghe nói ở làng Niêm Phò có anh nông dân khí khái, dám đấu tranh với cường hào, tuổi chưa đến 20 khiến Tố Hữu lân la sang làm quen với ý tuyên truyền giác ngộ cho anh nông dân. Ai ngờ sau đó mới té ngửa rằng anh nông dân Nguyễn Chí Thanh là thượng cấp của mình, đang giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy. Sau này, hai người trở thành đôi bạn thân thiết và chính người đồng chí, bạn đồng hương Nguyễn Chí Thanh đã truyền cho Tố Hữu cảm hứng, tình cảm để sáng tác nhiều bài thơ ngay trong những ngày tháng cùng bị địch giam cầm trong song sắt nhà tù.
    |
 |
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Ảnh tư liệu |
Năm 20 tuổi, Nguyễn Chí Thanh vừa đi làm thuê, vừa hoạt động cách mạng và gặp cô gái Nguyễn Thị Cúc (sau này là vợ ông) ở xã Nam Dương. Ngay lần đầu gặp, ông đã để ý cô gái có đôi mắt đen, thông minh, gương mặt trái xoan. Con gái trong vùng này thường không đẹp, ít người biết chữ, nhưng Cúc lại có học, gia đình khá giả, là cơ sở cách mạng, bố hay lui tới nhà cụ Phan Bội Châu. Cúc cũng hoạt động cách mạng sớm và cũng thầm mến người tá điền thật thà, tốt bụng Nguyễn Chí Thanh. Nhưng chưa ai kịp ngỏ lời thì Nguyễn Chí Thanh bị địch bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ cùng một số đồng chí, trong đó có nhà thơ Tố Hữu. Từ sau lần gặp đầu ở làng Niêm Phò, hai người gặp lại nhau trong hoàn cảnh éo le-sau song sắt. Tố Hữu cảm thấy rất gần gũi với Nguyễn Chí Thanh. Tố Hữu là người mê thơ phú, thích sáng tác, gặp Nguyễn Chí Thanh như một kho đầy ắp vốn sống của người nông dân, lại thích kể chuyện cổ tích, thích ngâm nga ca dao, hò vè, là nguồn vốn văn nghệ dân gian truyền cho Tố Hữu bao cảm hứng. Phải nói rằng, ở gần Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu làm được rất nhiều thơ.
Có những trưa hè ve sầu râm ran quanh lao Thừa Phủ, Tố Hữu nằm lắng nghe Nguyễn Chí Thanh hò khoan… giọng trong trẻo, ngân nga, truyền cảm, có lúc khiến nước mắt Tố Hữu tự dưng trào ra, ngực như có gì đó dồn ép, thổn thức. Tố Hữu nghĩ, những lúc đó chắc Nguyễn Chí Thanh đang nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ em, nhớ đồng ruộng, mùa cày, nhớ bạn gặt... Tố Hữu lẩm nhẩm, trong đầu xuất hiện tứ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ/ Hiu quạnh bên trong một tiếng hò.
Và những ý thơ cứ tuôn trào trong Tố Hữu, không có bút, giấy nên Tố Hữu lẩm nhẩm trong đầu cho thuộc lòng, chờ khi làm cỏ về sẽ nhặt những lá bàng, dùng kim băng, tăm tre chép lại: Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi/ Đâu ruồng tre mát thuở yên vui/ Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn/ Đâu những nương khoai ngọt, sắn bùi?...
Tố Hữu nhẩm thuộc bài thơ và đặt tên là “Nhớ đồng”, đọc cho Nguyễn Chí Thanh nghe. Nguyễn Chí Thanh gật gù không nói lời nào, hai mắt đỏ hoe.
Quả thực, Nguyễn Chí Thanh đã gợi nhiều cảm hứng cho Tố Hữu làm thơ. Làm được bài nào, Tố Hữu đọc cho anh em trong tù nghe và bao giờ cũng được Nguyễn Chí Thanh góp ý cặn kẽ, có khi còn sửa cho vài ba từ.
Mùa hè năm 1940, từ trong nhà lao, nhìn những cây phượng vĩ trổ bông đỏ rực, Tố Hữu bò đến chỗ Nguyễn Chí Thanh, hai người nằm cạnh nhau, cùng nghe tiếng tu hú gọi bầy, Tố Hữu khẽ đọc cho Nguyễn Chí Thanh: Khi con tu hú gọi bầy/ Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần/ Vườn râm dậy tiếng ve ngân/ Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào/ Trời xanh càng rộng càng cao/ Đôi con diều sáo lộn nhào từng không… (“Khi con tu hú”).
Nguyễn Chí Thanh thốt lên: Hay lắm. Còn tiếp không? Đọc đi!
Tố Hữu giọng cảm động, tiếp tục ngâm khe khẽ... Hai người nắm chặt tay nhau, cảm thông nỗi đau của nhau…
Cũng trong thời gian bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau vụ “làm reo” trong nhà tù để bảo vệ đồng chí Lê Chưởng khỏi sự tra tấn dã man của địch, 6 người mà địch cho là phần tử nguy hiểm đã lãnh đạo cuộc đấu tranh trong tù bị đày đi Lao Bảo, gồm: Nguyễn Chí Thanh, Lê Thế Tiết, Hoàng Anh, Phạm Tế, Lê Tự Nhiên và Tố Hữu. Trên đường đi Lao Bảo hiểm trở, trong lòng dâng đầy sự căm hận giặc tàn ác, Nguyễn Chí Thanh nói với Tố Hữu đọc một bài thơ đấu tranh cho anh em nghe. Tố Hữu cất giọng Huế, nhưng khác với bình thường giọng rủ rỉ ngâm nga, lúc này, nhà thơ cố gào to át tiếng xe ù ù lao dốc: Tôi đã sống những ngày điên phẫn uất/ Nhưng chưa hề một bữa như hôm nay/ Tôi đã nghe ran máu nóng hăng say/ Rung cơ thể khắp đầu tay, ngọn tóc.
Mấy tên lính đang ngủ gật bỗng giật mình tỉnh giấc, lăm lăm súng trong tay. Những người tù vẫn ngồi im lắng nghe như nuốt từng lời thơ, đôi mắt rực đỏ, hàm răng nghiến chặt… khiến bọn lính e sợ, hạ súng ngồi yên. Giọng Tố Hữu vẫn vang vang: Cho đến khi cuống họng vỡ toang rồi/ Và huyết quản đứt dòng, tim hộc máu/ Tôi sẽ chết sau những giờ chiến đấu/ Cần biết chi gươm, súng của quân thù/ Chĩa vào đầu, cách mạng vẫn cao hô: “Chống khủng bố! Chống khủng bố!”… (“Tranh đấu”).
Những câu thơ khiến mấy tên lính như bị nỗi sợ hãi ngấm vào tim, ngồi yên đưa mắt lấm lét nhìn nhau. Tố Hữu ngừng đọc, Nguyễn Chí Thanh đưa mắt như động viên: Đọc tiếp đi! Tố Hữu lại lên giọng...
    |
 |
Nhà thơ Tố Hữu. Ảnh tư liệu |
Một cuộc tuyệt thực, hô khẩu hiệu phản đối của những người tù chính trị trong nhà lao Lao Bảo khi hay tin đồng chí Lê Thế Tiết bị tên chúa ngục giết. Đang lúc đấu tranh cam go thì Tố Hữu bị ốm nặng, các đồng chí khác buộc địch đưa Tố Hữu đi chữa bệnh nhưng chúng lại đưa anh đi giam riêng, mang cơm đến dụ nhà thơ ăn. Nhưng Tố Hữu đã dùng sức yếu ớt hất đổ cơm canh, mắt nhìn nảy lửa như muốn nói cho địch biết rằng: Chúng bay không lừa được tao phản bội lại các đồng chí của tao đâu... Nhịn đói cả tuần, lại bị những cơn sốt hành hạ, sức khỏe Tố Hữu suy kiệt đến mức nghĩ cả đến cái chết. Sau này, Nguyễn Chí Thanh vẫn nhớ những câu thơ Tố Hữu làm trong những ngày tuyệt thực đấu tranh ở nhà tù Lao Bảo: ... Tôi sẽ chết, tuy chưa về tới đích/ Nhưng cần chi, đã có bạn chung đời/ Tung hoành trên mặt đất bốn phương trời/ Trường giao chiến không một giờ phút lặng/ Rồi chiến thắng sẽ về ta, chiến thắng/ Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta!... (“Trăng trối”).
Sau đó, Nguyễn Chí Thanh và Tố Hữu cùng một số đồng chí khác bị đày đến “địa ngục trần gian” khác-nhà lao Buôn Ma Thuột. Trên đường đi, Tố Hữu lại lên cơn sốt run cả ván sàn, nghiến răng kèn kẹt. Có đồng chí đến hỏi Tố Hữu rằng: Những bài thơ mới đây của anh có làm chúng sợ không? Có vác câu vần chữ nghĩa mà nện chúng được không?...
Nguyễn Chí Thanh thấy vậy đã không đồng tình và nói: Thơ cũng là vũ khí. Có khi một câu thơ, một bài thơ cổ động phong trào có sức mạnh bằng một trung đoàn.
Năm 1942, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu và một số đồng chí khác vượt ngục thành công, tiếp tục hoạt động cách mạng. Hai người gặp lại ở Quảng Ngãi, ôm nhau mừng mừng tủi tủi, nước mắt lưng tròng, nằm cả đêm ôn lại chuyện cũ... Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng những năm sau đó, dù qua bao thử thách, khó khăn, có lúc gần, lúc xa nhau nhưng tình bạn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và nhà thơ Tố Hữu vẫn luôn thắm thiết, bền chặt.
Sau này, nhà thơ Tố Hữu còn nhiều bài thơ viết về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Năm 1964, khi tiễn người bạn Nguyễn Chí Thanh vào lại chiến trường, nhà thơ Tố Hữu viết bài “Tiễn đưa” vốn có lời đề từ “Tặng bạn thơ Th.”, sau này nhà thơ viết lại rõ là “Tặng anh Nguyễn Chí Thanh”: Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường/ Nặng tình đồng chí lại đồng hương!/ Đã hay đâu cũng say tiền tuyến/ Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường!/ Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương/ Đi đi, non nước chờ anh đó!/ Tiền tuyến cần thêm? Có hậu phương...
Đặc biệt, khi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đột ngột qua đời, nhà thơ Tố Hữu đã giãi bày cảm xúc qua bài thơ “Một con người” với những câu thơ xúc động: ... Tôi chẳng buồn đâu, chỉ nhớ anh/ Mắt không muốn khóc, lệ vòng quanh/ Nước non đau xót như lòng mẹ/ Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh…
(Theo “Tổng tập Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tập 3-Sống mãi một vị tướng đức độ, tài năng”, Nxb Thời đại, 2013. Sách hiện có tại Thư viện Quân đội)
DƯƠNG THU (tổng hợp)