Nhiều học giả, tướng lĩnh đã viết về ông, đánh giá cao tài thao lược về quân sự, chính trị và nhiều lĩnh vực khác. Trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc đến tướng Nguyễn Chánh: “Anh qua đời, quân đội mất đi một vị tướng tài năng, tôi mất đi một người bạn chí thiết”.

Người lãnh đạo du kích Ba Tơ

Thiếu tướng Nguyễn Duy Phê, nguyên Trưởng ban Cơ yếu Trung ương kể lại thời kỳ hoạt động cùng đồng chí Nguyễn Chánh ở mặt trận Quảng Ngãi trong Đội du kích Ba Tơ:

Khoảng tháng 4 năm 1945, giữa mùa hè oi bức của nắng miền Trung, tôi được trên giao nhiệm vụ tổ chức đón một đồng chí cán bộ quan trọng và đưa đồng chí ấy lên Chiến khu Ba Tơ. Gặp nhau rồi tôi mới biết đó là đồng chí Nguyễn Chánh, người mới thoát khỏi nhà tù của đế quốc Pháp. Đồng chí kể cho tôi nghe một mẩu chuyện khá lý thú sau đây:

“Tôi thoát tù về nhà được mấy hôm thì anh Trần Quý Hai từ Ba Tơ về gặp. Chúng tôi đang mở đầu câu chuyện thì B., một đảng viên cũ tìm đến. Tôi bảo anh Hai tạm vào buồng ngồi, để xem B. đến nói gì. Khi gặp tôi, B. phê phán rất nhiều cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và đề nghị tôi nên khuyên anh em du kích Ba Tơ rút lui và giải tán, vì hiện nay Nhật đang mạnh lắm, ta không thể đương đầu nổi, sẽ bị khủng bố và tiêu diệt. Sau khi bình tĩnh nghe B. nói hết, tôi nói anh em Ba Tơ hành động rất đúng đắn và kịp thời, ta phải ủng hộ, việc làm của anh em không sai, vì cách mạng hiện nay đang ở vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, một số nơi đã khởi nghĩa, như Bắc Sơn và đã có chiến khu cách mạng Việt Bắc. Vả lại, địa thế châu Ba Tơ rất hiểm trở, dân Ba Tơ rất tốt, nhất là đồng bào thiểu số Ba Tơ có truyền thống chống Pháp lâu đời. Vì vậy, khởi nghĩa Ba Tơ, xây dựng chiến khu cách mạng, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa toàn tỉnh, hưởng ứng khởi nghĩa toàn quốc khi có thời cơ là hoàn toàn đúng đắn. Hơn nữa, ta không phải chỉ có một Đội du kích Ba Tơ mà còn cả lực lượng và phong trào quần chúng được xây dựng và phát động thành cao trào mạnh mẽ. Hai lực lượng đó dựa vào nhau và bổ trợ lẫn nhau thì Nhật không làm gì nổi. Sau khi nghe tôi nói như vậy, B. tỏ vẻ bất bình, nói mấy câu rồi ra về. Anh Trần Quý Hai ngồi trong buồng nghe rõ ràng nội dung tôi trả lời B. thì rất phấn khởi, coi như đã được một phần lớn công việc cần trao đổi với tôi ngày hôm đó”.

Cũng do tình hình rắc rối trong quan điểm của một số đảng viên cũ nói trên nên Tỉnh ủy đề nghị anh Chánh lên Chiến khu Ba Tơ sớm. Do đó mới có cuộc gặp gỡ này giữa tôi và anh Chánh.

Trong cuộc gặp gỡ này, tôi hỏi anh Chánh về chủ trương khởi nghĩa toàn tỉnh tiếp theo khởi nghĩa Ba Tơ và chỉ thị đình chỉ ngay khởi nghĩa toàn tỉnh. Anh Chánh cho rằng, việc đình chỉ ngay cuộc khởi nghĩa toàn tỉnh tiếp sau khởi nghĩa Ba Tơ là đúng đắn và sáng suốt. Nếu khởi nghĩa toàn tỉnh, ta sẽ bị tổn thất lớn và sẽ ảnh hưởng đến khởi nghĩa cướp chính quyền toàn tỉnh khi có thời cơ về sau này.

leftcenterrightdel
Thiếu tướng Nguyễn Chánh (1914-1957).  Ảnh tư liệu 

Sau này, anh Trần Quý Hai có lần tâm sự với tôi. Chúng tôi đều thấy rằng, anh Nguyễn Chánh có quan điểm rất đúng đắn và là người rất nhạy bén trước tình hình vô cùng phức tạp lúc bấy giờ.

Khoảng giữa tháng 5-1945, trong hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, tôi lại gặp anh Nguyễn Chánh và cả anh Nguyễn Đôn, hai anh trong Ban lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ về dự. Tại hội nghị này, anh Chánh và anh Đôn cùng đề nghị điều tôi sang công tác tại Đội du kích Ba Tơ, sau khi tôi được bổ sung vào Tỉnh ủy.

Vào xế chiều của một ngày cuối đông năm 1946, tại cơ quan chỉ huy quân sự phía nam tỉnh Quảng Ngãi, đóng ở xã Vạn Lý, anh Nguyễn Chánh, cô Trần Thị Thuyết (con gái cụ Trần Toại) và một số anh em đi ô tô đến Vạn Lý thăm chúng tôi. Trên cánh tay anh Chánh đeo băng đỏ, thêu chữ vàng “Ủy viên trưởng Quốc phòng Trung Bộ”. Tôi báo cáo với anh về tình hình ăn, ở, sinh hoạt của anh em. Anh hỏi trình độ giác ngộ chính trị? Tôi trả lời: “Nói chung anh em giác ngộ về dân tộc thì khá nhưng giác ngộ giai cấp thì còn yếu”. Anh Chánh mỉm cười nói: “Đối với cách mạng Việt Nam ta, vấn đề giai cấp và dân tộc không thể tách rời nhau, không thể giác ngộ dân tộc hơn giác ngộ giai cấp hoặc ngược lại mà hai mặt này luôn luôn quyện vào nhau một cách nhuần nhuyễn…”.

Anh Nguyễn Chánh luôn luôn nhắc nhở chúng tôi trong quá trình hoạt động cách mạng cần phải có chủ trương và đường lối đúng đắn, không tả, không hữu và khi đã có chủ trương, đường lối đúng thì phương pháp và hành động cũng phải đúng. Nếu phương pháp và hành động lệch lạc có thể làm cho chủ trương và đường lối đó không thực hiện được, có khi còn bị thất bại. Anh Chánh thường không nói dài nhưng nội dung rất súc tích, sâu sắc, dễ hiểu, dễ nhớ.

Khôi phục và phát triển nghệ thuật tuồng Liên khu 5

Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Tường Nhẫn đánh giá rất cao công lao đóng góp của tướng Nguyễn Chánh trong việc khôi phục, giữ gìn và phát triển nghệ thuật tuồng Liên khu 5 từ thời kháng chiến. Nghệ sĩ nhớ lại những năm tháng đó: Sau Cách mạng Tháng Tám và mấy năm đầu kháng chiến chống Pháp, ở Nam Trung Bộ, sân khấu ca kịch dân tộc, như hát bội (tuồng), bài chòi, cải lương… không còn hoạt động. Các gánh hát giải tán, các nghệ sĩ tìm nghề khác để sống. Có thể nói, chính anh Nguyễn Chánh là người đầu tiên trong lãnh đạo ở Liên khu 5 hồi bấy giờ đã cảm nhận ra nhu cầu tinh thần sâu xa này của nhân dân và đã hiểu thấu đáo vẻ đẹp độc đáo, ý nghĩa thâm thúy, giá trị quý báu, vai trò của nghệ thuật dân tộc trong đời sống con người, kể cả đang sống giữa lúc chiến tranh.

Năm 1951, sau khi đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Việt Bắc về, trong một hội nghị Thường vụ Liên khu ủy, anh Chánh đã kiên quyết đưa ra chủ trương khôi phục các hình thức ca kịch dân tộc truyền thống ngay trong kháng chiến và trước mắt nhằm phục vụ kháng chiến. Anh nói rằng, Liên khu 5, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên xưa nay là đất hát bội; có nhiều tác giả và nghệ sĩ nổi tiếng, nhân dân đặc biệt say mê tuồng. Mà tuồng là một trong những hình thức nghệ thuật truyền thống ưu tú nhất của cả nước ta. Bây giờ dù đang kháng chiến có nhiều khó khăn, chúng ta vẫn nên thành lập lại một đoàn hát bội của khu, làm nòng cốt cho phong trào, dần dần phát triển, khi có điều kiện có thể sẽ cho thành lập các đoàn hát bội ở từng tỉnh. Như vậy, vừa nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân, vừa khôi phục, giữ gìn và phát triển một nghệ thuật truyền thống quý báu và cũng không để mai một những nghệ sĩ ưu tú thật sự tài năng…

Anh Chánh một mặt kiên trì giải thích, thuyết phục, một mặt cũng tỏ rõ sự quyết đoán cần thiết. Anh nói: “Ta cứ nên làm, các đồng chí ai thích thì xem, ai không thích thì đừng xem. Thử hỏi Khu 5 không hát bội thì hát gì? Chúng ta nên mời các nghệ sĩ tuồng có tài năng lớn, họ là vốn quý của nhân dân, ta phải có trách nhiệm chăm lo, giữ gìn và phát huy họ. Lời ca tiếng hát của họ có tác dụng lớn trong nhân dân, phải biết tận dụng tài năng của họ vào công việc tuyên truyền cách mạng, kháng chiến…”.

Thường vụ Liên khu ủy đã có nghị quyết về việc khôi phục, phát triển nghệ thuật tuồng và các hình thức dân ca kịch truyền thống ở Khu 5. Ban tuyên huấn Liên khu 5 giao nhiệm vụ cho anh Hoàng Châu Ký trực tiếp lo việc này. Anh Ký tập hợp được các nghệ sĩ và tác giả có tên tuổi như: Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu, Văn Phước Khôi, Tống Phước Phổ... (đa số các nhân vật này về sau đều trở thành nghệ sĩ nhân dân) làm nòng cốt ban đầu, từ đó mở rộng dần, lập nên Đoàn hát Bội Liên khu 5.

Khi làm Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5, anh vẫn ân cần theo dõi công việc của chúng tôi, thậm chí có thể nói, cùng chúng tôi suy nghĩ, trăn trở, tìm tòi và chính qua công việc này, chúng tôi càng hiểu thêm: Anh Chánh không những là người rất yêu nghệ thuật tuồng đến say mê mà còn khá tinh thông nền nghệ thuật vừa dân dã vừa uyên bác này. Trong lĩnh vực chỉ đạo nghệ thuật và làm việc với các nghệ sĩ, anh là một người tinh tế, tình nghĩa, rất tôn trọng tài năng và rất cẩn trọng trong phán xét tác phẩm và con người nghệ sĩ.

Quả thật, nếu thời kỳ đó không có người lãnh đạo như anh Chánh thì rất có thể một trong những nghệ thuật truyền thống đặc sắc nhất của dân tộc đã bị tản lạc, mai một, thậm chí mất tích hoàn toàn; một loạt nghệ sĩ tài năng đã bị chìm trong quên lãng mãi mãi và hậu quả tai hại đối với ngành nghệ thuật này thật khó lường.  

Sau Hiệp định Genève 1954, trong không biết bao nhiêu công việc bộn bề và quan trọng của người lãnh đạo chủ chốt và trong thời điểm rất phức tạp, anh Chánh vẫn đặc biệt chăm lo cho việc đi tập kết của các đoàn văn công. Anh trực tiếp chỉ thị đưa các đoàn hát bội, đoàn ca múa tổng hợp, đội bài chòi, đoàn ca múa Tây Nguyên ra Hà Nội để kịp dự đại hội văn công toàn quốc.

Trong những năm tháng ở Hà Nội, anh Chánh rất nhiệt tình chăm lo cho lực lượng văn nghệ Khu 5 tập kết. Tết đầu tiên ở miền Bắc, đêm Giao thừa, anh xuống với anh chị em văn công Khu 5, động viên, an ủi anh chị em. Sau mỗi lần đi công tác xa về, lần nào anh cũng xuống thăm anh em, nhiều hôm anh ở lại tâm sự với anh em tận khuya.

Sau khi anh Chánh mất, một số lãnh đạo ở Bộ Văn hóa lúc đó có ý giải tán các đoàn nghệ thuật Liên khu 5 và đoàn tuồng. Anh Lê Liêm có lần nói với một số anh ở Bộ Văn hóa: Anh Chánh khi còn sống vẫn thường tâm sự tha thiết: “Đưa anh chị em ra miền Bắc là để anh chị em trưởng thành chứ không phải là để giải tán…”.

Quả thật, nếu không có anh Chánh, tấm lòng và tầm nhìn sâu sắc của anh cùng những người hiểu rõ và tận tâm thực hiện tư tưởng của anh thì chưa biết cả một mảng lớn nghệ thuật sân khấu truyền thống Liên khu 5, trong đó có nghệ thuật tuồng tuyệt vời, sẽ ra sao…

ĐỨC TOÀN (Tổng hợp)