Nhiều người giơ máy ảnh chụp. Thấy thế, tôi phải xin phép xuống xe. Người mà bà con cô bác muốn chụp ảnh, hỏi chuyện chính là anh Bùi Quang Thận và các đồng đội của anh chứ không phải tôi-một phóng viên.
Việc của tôi lúc này là viết gấp bài báo về những cảnh sắc, tình tiết chiến trận vừa diễn ra. Đầu đề bài viết đang ong ong trong đầu tôi. “Cuộc tiến công hiệp đồng đánh chiếm dinh Độc Lập”? Tôi đang tìm một góc nhà hay một gốc cây để ngồi viết thì chính mình đã bị bà con vây kín như mọi cán bộ, chiến sĩ ta ở trước dinh Độc Lập và trên trục đường Thống Nhất. Nhìn chiếc máy ảnh tôi đeo trước ngực, mọi người chen nhau hỏi: “Anh là ký giả chiến trường?”; “Anh từ Hà Nội vào hay từ bưng biền ra?”; “Ngày hôm nay đã kịp ăn gì chưa?”; “Ngoài Bắc mùa này còn lạnh lắm không?”; “Ngoài đó nhiều người bị đói không?”; “Cụ Hồ mất rồi thì ai chỉ huy?”… Rồi “Hà Nội có nhiều building, biệt thự như Sài Gòn?”; “Tụi trẻ có được đi học?”… Rồi “Mai mốt chúng tôi có phải bắt vô trại giam?”…
Chỉ sau một đêm, những câu hỏi của người Sài Gòn đã khác rất nhiều. Thành phố dậy sớm, mới khoảng 4-5 giờ sáng, từ nơi chúng tôi trú ngụ qua đêm tại trụ sở bộ nội vụ ngụy quyền Sài Gòn đã vang lên tiếng xe máy, ô tô, nhất là xe xích lô máy trên các trục đường Công Lý (sau này là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), Tự Do (Đồng Khởi), Thống Nhất (Lê Duẩn).
    |
 |
Nhà báo Mạnh Hùng (bên phải) và nhà báo Anh Ngọc (Báo Quân đội nhân dân) trên cảng Bạch Đằng (Sài Gòn), đầu tháng 5-1975. Ảnh do nhà báo Anh Ngọc cung cấp |
Vừa bước chân ra đường, tôi đã bị mấy chiếc xe máy dừng lại trước mặt. “Anh Giải phóng đi đâu chúng tôi sẽ đưa tới”-những câu chào mời thật lòng. Tôi đã quen với chuyện này sau những ngày ở Huế rồi Đà Nẵng mới giải phóng nên vui vẻ cảm ơn và nhận lời: “Tôi muốn thăm vài nơi trong thành phố”. Tôi ngồi giữa một người đàn ông trung niên và một anh thanh niên. Anh trung niên lái xe quay lại: “Tôi biết nhiều điểm nóng nổi tiếng chống Mỹ của người Sài Gòn trước đây”. Rồi anh tự giới thiệu: “Tôi là trung tá trong quân lực Việt Nam cộng hòa, vốn người Bắc di cư. Trước đây tôi giảng dạy ở Trường võ bị Đà Lạt. Chú ngồi sau đây là thiếu úy mới ra trường”. Nghe anh nói, tôi hơi chột dạ. Thành phố mới giải phóng, biết đâu người lành, biết đâu địch-ta. Nhưng nghe giọng tự giới thiệu, tôi nghĩ họ thật thà, chỉ muốn được giúp bộ đội mình và muốn hỏi chuyện như bao người mình đã được giúp, được hỏi trong những ngày trước và ở Sài Gòn ngay chiều qua.
Đúng như tôi nghĩ, vừa cho xe máy đi chầm chậm về hướng đường Hồng Thập Tự, anh trung niên vừa hào hứng kể: “Trước đây, cả khu vực quanh dinh Độc Lập này không ai được đi qua, kể cả chúng tôi. Nay thì cả thành phố là của người Việt Nam mình rồi. Miền Bắc, miền Nam là một, nước mình sẽ giàu mạnh lên đâu có kém ai. Mà tôi thấy Quân Giải phóng giỏi thiệt, xe tăng, pháo binh gì cũng điều khiển ngon lành. Chắc ngoài đó binh sĩ đều được học dữ lắm phải không anh?”. Tôi đồng ý và kể sơ sơ với hai anh về hệ thống giáo dục ở miền Bắc, có đủ từ mẫu giáo đến phổ thông, đại học… Hai anh tỏ ra mừng lắm và chuyện tiếp: “Ở Sài Gòn, ở miền Nam này có nhiều người làm ăn buôn bán, nhiều kinh tế gia, kỹ thuật gia giỏi lắm. Nhiều người được du học ở Mỹ, ở châu Âu, Nhật Bản”. Anh trẻ tuổi ngồi sau tôi tiếp lời: “Rồi mai mốt Việt Nam mình sẽ có nhiều trường học phải không anh?…”.
Lúc này, trên các ngã tư đã đầy người qua lại, nhiều người mang những bó cờ nho nhỏ, cắm sẵn cán để tặng và để bán. Người dân ở đây đúng là quá nhạy bén trong thương mại. Chỉ qua một đêm, các cửa hàng, cửa hiệu đã mở lại khá nhiều, hàng hóa tràn ngập. Ngay cả vỉa hè cũng trở thành nơi bán hàng cũ, hàng rẻ tiền.
Hai anh sĩ quan chế độ cũ đưa tôi qua cổng Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Bên trong, sinh viên tụ tập khá đông.
Biết tôi là “ký giả miền Bắc”, mọi người xúm lại, mời tôi đứng lên bục giảng. Sau những lời các sinh viên bày tỏ niềm vui giải phóng, hòa bình, đoàn tụ Nam-Bắc là cả một cơn mưa câu hỏi: Anh thấy Sài Gòn đẹp không? Hà Nội có giống nơi đây không? Máy bay Mỹ ném bom nhiều năm liền, phố phường, nhà cửa có còn hay đổ nát hết? Trong bom đạn, người ngoài đó sinh sống, học hành thế nào? Các anh Giải phóng đâu có ốm yếu như chúng tôi nghe mấy ông tâm lý chiến nói? Vô trận các anh ăn uống ra sao? Ngoài Bắc học những môn gì? Chương trình văn khoa thế nào? Có học ngoại ngữ? Ngoài Nga ngữ, Hoa ngữ có được học Anh ngữ, Pháp ngữ? Văn khoa ngoài đó có dạy Truyện Kiều? Có dạy Victor Hugo, Dostoyevsky? Rồi đây nội dung học đại học miền Nam, miền Bắc có giống nhau? Sinh viên có phải đăng lính?...
Rời Trường Đại học Văn khoa, hai anh sĩ quan cũ lại đưa tôi đến Trường Đại học Vạn Hạnh, trong đó có Khoa Báo chí. Rồi chúng tôi đến “ngôi nhà sinh viên”-câu lạc bộ nổi tiếng tại số 4 Duy Tân. Lại là liên tiếp những câu hỏi, những đối thoại, những câu chuyện. Là phóng viên, việc của tôi là phỏng vấn, hỏi chuyện mọi người, nhưng ngày đầu tiên sau giải phóng, tôi lại là người được hỏi, bị hỏi, phải trả lời, phải kể chuyện. Chưa bao giờ tôi phải nói nhiều như thế, đến chiều tối thì cổ họng tôi khản đặc. Nhưng đêm ấy, tôi thầm nghĩ, có lẽ những cuộc gặp gỡ, nói chuyện của mình với các sĩ quan Sài Gòn cũ cùng những sinh viên đã giúp họ và tôi đến gần nhau hơn, hiểu nhau và hiểu về cách mạng, về giải phóng, về Nam-Bắc một nhà nhiều hơn.
Sáng hôm sau, ngày 2 tháng 5, rồi ngày sau nữa, những cuộc gặp gỡ, những chuyến rong ruổi phố phường Sài Gòn lại tiếp diễn. Cứ ra đường là tự khắc có những người tình nguyện lái xe đưa tôi đi. Có người làm nghề bán hàng rong, có người là công chức, là giáo viên. Một trong số họ là anh trung úy hải quân Việt Nam cộng hòa. Anh chở tôi đi bằng chiếc mobylette cũ kỹ, đến với những nơi mà như anh nói, trước đây anh không dám mơ mình sẽ được đến. Đó là các khách sạn Continental, Majestic…, là tòa đại sứ Mỹ, tòa nhà chính phủ Sài Gòn… Anh kể từng được đào tạo về vận hành, sửa chữa tàu chiến tại một căn cứ hải quân Mỹ ở San Francisco. Tuy đã là sĩ quan song mới ra trường, nhà lại nghèo vì ba mẹ chỉ buôn bán vặt nên anh chưa nghĩ đến chuyện lấy vợ. Anh bảo anh rất thích nói chuyện với các anh Bộ đội Giải phóng vì ai cũng dễ thương, hiểu biết nhiều. Anh đưa tôi đến một địa chỉ mà anh cùng bạn bè hay lui tới nhất, đó là tiệm Khánh Ly của ca sĩ Khánh Ly nổi tiếng trên đường Tự Do. Tiệm bar này lúc chúng tôi đến chẳng có mấy người. Trên kệ bày nhiều thứ rượu tây và các loại bia. Tôi nhâm nhi một chai nước ngọt có ga và nghe anh kể chuyện bên chiếc đàn piano để không bên góc tiệm. Anh và bạn bè thích đến đây để được nghe Khánh Ly hát, hát các ca khúc tình yêu và nỗi buồn, các ca khúc phản chiến và nhất là các bài của Trịnh Công Sơn… Những ngày sau, cứ sáng ra, tôi lại thấy anh ngồi trên chiếc xe mobylette cũ đợi sẵn. Anh còn muốn hỏi nhiều điều, đặc biệt là thân phận anh và các sĩ quan, binh lính chế độ cũ sẽ ra sao. Tôi trả lời anh rằng rồi các anh sẽ đi khai báo với chính quyền, sẽ đi học tập một thời gian để hiểu về đất nước, về cách mạng và tư cách mới của chủ nhân cuộc sống mới… Ít tháng sau, khi đến thăm một con tàu chiến cũ đang được sửa chữa tại Nhà máy Ba Son, tôi gặp lại anh. Gương mặt sáng, nụ cười rất tươi, anh kể đang làm công việc sửa chữa máy tàu.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn, tôi có thêm nhiều người quen, người bạn vốn là những học sinh, sinh viên trên các công trình xây dựng, các xưởng sản xuất, trên nông trường thanh niên xung phong, ở ngoại thành hay các tỉnh lân cận...
Và rồi, trong đợt tuyển quân đầu tiên vào các đơn vị huấn luyện tại nơi từng là quân trường Quang Trung của chế độ ngụy quyền, tôi lại được thấy những gương mặt trẻ trung quen thuộc từ Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh. Những ngày bỡ ngỡ qua đi, họ dần trở thành những đồng đội thực sự của tôi, những sĩ quan, chiến sĩ có thể nói là thông minh, cần cù và phần nào là thiện chiến trên các mặt trận của Quân tình nguyện Việt Nam giúp đất nước và người dân Campuchia qua thảm họa diệt chủng. Tôi cũng đã được gặp những cựu công chức, công nhân, sĩ quan, binh lính của chế độ cũ trong nhiều thứ công việc mới của họ. Người sửa xe, người bán hàng, người làm trong các công xưởng cơ khí hay da giày, chế biến gỗ hay đồ xuất khẩu. Và nhiều người nữa, từ buổi đầu đến với các khu kinh tế mới dần trở thành những người chủ các trang trại nuôi heo, nuôi gà hay trồng hoa, trồng cây ăn trái. Và cả những người Sài Gòn cũ trên đất Hoa Kỳ… Tôi vẫn nhớ Lâm Phan, một công chức chế độ cũ sang Hoa Kỳ làm nghề luật sư giúp cho người gốc Việt. Năm 1996 ấy, một năm sau ngày Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ, Lâm Phan và Andy Tạ giúp đoàn nhà báo Việt Nam chúng tôi trên suốt hành trình ở đất nước rộng lớn này. Bao chuyện quá khứ, kể với nhau để rồi gác lại cho những câu chuyện về tương lai.
Rồi một ngày bất chợt, Lâm Phan và vợ anh đến ngay trước cổng cơ quan tôi ở Hà Nội. Anh kể, chuyến về lần này, anh dành chủ yếu để nâng cấp một cơ sở đào tạo nghề do anh và nhiều người tài trợ tại Quảng Trị. Rồi anh xin phép lên xem chỗ tôi ngồi làm việc. Nhìn bộ bàn ghế trong phòng, anh hỏi: “Thế phòng nào cũng thế này?”. Rồi anh quay sang chị vợ: “Đấy, sĩ quan cấp tá của Việt cộng đâu có “ăn trên ngồi trốc” xa hoa gì?”. Anh nói thực lòng: “Mấy cha bên kia nói xạo hết! Tiền bà con gửi về là để sản xuất, kinh doanh hay cứu trợ người nghèo gặp thiên tai, rủi ro chứ đâu phải để nuôi bộ máy cán bộ Cộng sản như mấy cha tuyên truyền”.
Những năm tháng qua đi, 10 năm, 20 năm, rồi 45 năm, tất cả những gần gũi, hòa hợp vì cuộc sống của mỗi con người, mỗi gia đình, vì đất nước yên bình, phát triển đã khởi đầu từ biết bao câu hỏi trong những ngày đầu Sài Gòn giải phóng. Rồi những câu hỏi cứ tiếp nối, mới lên và câu trả lời không chỉ bằng những lời nói mà bằng bao tấm lòng người Việt, bao công việc, bao hành động thực tế để đất nước và cuộc sống mỗi con người ấm êm, tươi đẹp lên cùng năm tháng.
Đại tá NGUYỄN MẠNH HÙNG