Mẹ ông, dịu hiền, cam chịu, âm thầm trăn trở. Bà mất sớm vì bệnh hiểm nghèo, để lại cho ông bài học cốt tử: Luôn luôn sống hữu ích cho cộng đồng bằng lòng quả cảm, vị tha, hướng thiện. Cha ông sốc nặng vì mất vợ, rơi vào nghiện ngập dù được ban danh hiệu quý tộc, kèm hai ngôi làng. Năm 1839, ở trường quân sự,
Dostoevsky được tin dữ: Cha bị các nô lệ giết chết, do cha hành hạ họ quá tàn độc. Cú đòn thù khiến Dostoevsky mắc bệnh động kinh, mặc dù, về sau ông biết rằng cha qua đời vì xuất huyết não, tin thất thiệt chỉ nhằm hãm hại cha. Nhưng, ông hiểu rằng căn bệnh kinh niên ấy là sự trừng phạt đích đáng cho ông, đứa con từ nhỏ đã ngấm ngầm thù ghét cha và mong cha tử nạn. Ông cũng tự nhủ chính ông là chủ mưu vụ “giết cha” man rợ…
Dostoevsky chào đời ở bệnh viện dành cho người nghèo, nơi cha làm việc và sống cùng gia đình. Ông lớn lên giữa thuốc men đủ loại và những người bệnh đói khổ ốm o, què cụt. Họ thường gợi lên những ánh mắt ái ngại, chen tiếng thở dài của mẹ. Ông biết mẹ thương họ lắm, nhưng bất lực. Với mẹ, sinh linh nào cũng có quyền được sống. Tấm lòng vàng của mẹ, cha không hiểu. Hai cá tính đối ngược, sao gắn bó được trong một mối tình nhiều bi kịch! Tuy bận bã, mẹ vẫn đọc rất nhiều sách văn học. Để nắm bắt bí ẩn cõi đời?...
Dost theo mẹ, ngốn ngấu tác phẩm của các ông lớn Nga và thế giới, và muốn được ngỏ lời với nhân gian, thay mẹ. Tốt nghiệp đại học, năm 1842, ông được phong sĩ quan. Nhưng ông xin từ nhiệm, làm việc vặt để sống, lao vào văn học. Tiểu thuyết đầu tay “Những người tội nghiệp” (năm 1846), thành công nức lòng. Những cuốn tiếp theo, do ông bắt chước Gogol lộ liễu, bị độc giả lạnh nhạt. Để thoát khỏi cô đơn, ông lui tới với một nhóm bạn trẻ tụ tập bí mật, để nghiên cứu nhân quyền, chia sẻ ước mơ làm suy yếu ách nặng độc tài và bãi bỏ chế độ nô lệ. Cả nhóm bị bắt năm 1849 và kết án tử, sau chuyển xuống khổ sai đi đày. Bốn năm cực hình ấy (1850-1854), ông nhớ mẹ hoài, quyết không bỏ phí thời gian. Được gặp gỡ nơi tù đày những người Nga ưu tú nhất, ông xúc động và miệt mài nghiên cứu tôn giáo, bản tính Nga và dân tộc Nga.
    |
 |
Anna Grigorievna Dostoievskaia. |
Hết hạn lưu đày, ông được làm lính biên phòng, bồi hồi ghê gớm với cuộc sống tự do. Ông thấy cần “hiến mình trọn vẹn” cho một đồng loại, đến mức ông si mê một phụ nữ có chồng con rồi, bị lao phổi, không nghề nghiệp và nghèo túng, dù chị không yêu ông. Ông kết hôn với chị, khi chồng chị qua đời. Năm 1859, ông được Nga hoàng cho phép trở về thành phố, làm báo và viết văn, qua ngày vất vả. Truyện và tiểu thuyết ngày càng có nhiều bạn đọc. Chúng mở ra thế giới lưu đày khổ cực, nhưng lạc quan và nhân văn tột độ.
Trong chuyến du lịch châu Âu đầu tiên năm 1862, ông “gục ngã” trước mối tình sét đánh với một nữ sinh viên Đức. Cô này yêu ông chung thủy, nhưng không chấp nhận thay thế vợ ông, khi chị đi xa. Anh trai ông chết gần cùng lúc với vợ ông, các con của anh được ông đỡ đầu, nợ nần hai gia đình cứ thế lớn lên mãi, ông phải tăng tốc lao động. Ấy là cánh cửa để một phụ nữ bình dân bước vào đời ông, một thiên tài mà cuộc đời và sự nghiệp chẳng khác những thiên truyện hình sự hút hồn. Đó là Anna Grigoryevna (1846-1918), con gái một viên chức nhỏ, ông này yêu thích sân khấu và văn học, đặc biệt mê mẩn văn Dostoevsky. Tuổi thơ của cô đã được ru nựng bằng nhiều trang truyện ly kỳ thót tim của văn hào. Cuối năm 1886, cô được Dost tuyển làm thư ký. Cô nhoay nhoáy đánh máy, theo từng câu ông đọc. Hai người nhanh chóng cảm thấy bị hút vào nhau. Lo mình đã già, 45 tuổi, cô mới 20, Dost do dự, bèn sáng tác một truyện ngắn, kể chuyện một họa sĩ già thầm yêu người mẫu nữ trẻ. Tính cách của họa sĩ là của nhà văn. Tính cách của người mẫu là của Anna. Người mẫu đáp lại tình yêu của họa sĩ.
Truyện viết xong, hai hôm sau, Dost hỏi Anna, nếu ông là họa sĩ, cô là người mẫu, cô có tán thành một kết cục như vậy? Dĩ nhiên cô tán thành. Biết nhau hơn ba tháng, hai người đã thành vợ chồng, giữa lúc nhà văn nợ ngập đầu, thể lực mỏng manh, lại hay bị những cơn động kinh hành hạ. Để tạm trốn nợ, vợ chồng Dost lánh sang châu Âu. Không ít lần, ông phải viết thư xin bạn bè “cấp cứu”. Để gỡ bí, ông xin vợ đi đánh bạc. Cô rất buồn, nhưng vui vẻ chấp thuận, vì biết trò đỏ đen có lợi cho tâm trí chồng. Vả lại, không khi nào cô có ý thay đổi tâm tính ông. Nhưng ông lần lượt nướng sạch, từ món tiền “tiếp tế” vừa nhận được tới nữ trang của vợ. Ông về quỳ xin vợ tha tội. Cô không hề trách cứ hay tỏ vẻ khó chịu. Ngược lại, cô ân cần an ủi ông, khích lệ ông “còn người thì còn của”. Và, như một phép lạ, cô âm thầm nhịn ăn, thu vén, không bao giờ để ông “đứt bữa”. Tối tối, cô vừa chung sức sáng tác vừa đánh máy tác phẩm, khi ông ngồi bên, đắm mình vào thế giới nhân vật máu thịt của mình, trước tách trà giá lạnh. Với cô, đây mới là chồng cô, người đàn ông đẹp nhất trên đời.
Bốn con, hai gái, hai trai đến với Dost, vào các năm 1868, 1869, 1871, 1875. Khi bé gái đầu ba tháng tuổi mất vì cảm lạnh, ông gượng dậy được là nhờ vợ. Cô bao giờ cũng nhẹ nhàng, trìu mến, vất vả đến mấy cũng không nao núng, nhất là trong những cơn động kinh quá nặng của chồng. Anna còn chủ động làm tất cả việc giao dịch, in ấn, chuyển gửi sách báo của ông, như một nhà quản lý giỏi. Đặc biệt, Anna không cho nhà xuất bản nào gian lận. Những việc này, Anna làm suốt đời, càng ngày càng cẩn trọng. Thế nên, Dost chỉ việc dồn hết tâm trí vào sứ mệnh đời mình: Bóc trần hiện thực đen tối phi lý của nước Nga, bênh vực nhân dân Nga cao cả nhưng khốn khổ, thức tỉnh lương tri và lẽ phải…
Từ năm 1871, ông thôi hẳn cờ bạc. Cuối năm đó, vợ chồng hồi hương. Dù mật vụ của Nga hoàng vẫn theo dõi ông cho tới từng gói bưu phẩm. Nhờ tính thực tiễn và ý chí của vợ, cuộc sống của hai gia đình ổn định dần, nợ nần được trang trải hết. Ông bắt đầu bày tỏ công khai nhiều điều gan ruột, ví như bác bỏ thượng đế và chế độ quân chủ, nhân loại lại xây dựng một thế giới bị chủ nghĩa vật chất vị kỷ thống trị. Thế giới tối mắt vì đồng tiền! Đấy còn là tình yêu nước Nga đắm đuối: Thiên tài Nga vượt trội mọi thiên tài; dân tộc Nga đóng vai trò cứu rỗi; chỉ dân tộc Nga có khả năng thấu hiểu các dân tộc và mang lại hạnh phúc cho toàn nhân loại. Diễn văn về Pushkin của ông năm 1880, đến nay vẫn gây kinh ngạc. Với ông, Pushkin là minh chứng hùng hồn nhất rằng, nhân dân Nga có thừa những phẩm chất hữu hiệu nhất để xây dựng một xã hội khoa học và lành mạnh, xứng đáng với loài người. Bài diễn văn được hàng nghìn người vỗ tay tán thưởng, nhất là phụ nữ và thanh niên, có sinh viên ngất xỉu tại chỗ. Giới tinh hoa thì choáng váng và khâm phục, trong đó có nhiều “kẻ thù” cũ của Dost, như Tourgueniev.
Sau tiểu thuyết “Anh em nhà Karamazov” (1880), ông hoan hỉ thông báo sẽ viết 20 năm nữa. Vậy mà, mấy tháng sau, ông tắt thở vì đột quỵ. Đám tang ông bàng hoàng không kém đám tang Pushkin. Ba mươi ngàn người đủ hoàn cảnh và số phận đưa tiễn ông về cõi cực lạc. Vợ ông liền bền bỉ sưu tầm nhiều bức ảnh, tư liệu của ông và về ông, xuất bản thành nhiều tập, cùng các hồi ký của bà. Những tập ấy giúp hiểu sâu, hiểu đúng “Vũ trụ Dostoevsky”. Nhờ chất trinh thám hình sự không chủ tâm, “Vũ trụ” đó cao giá lên nhiều. “Anh em nhà Karamazov”, “Tội ác và trừng phạt”, “Thằng ngốc”…, vẫn được đọc nhiều bậc nhất thế giới. Trong “Vũ trụ” đó, tất cả các mặt nạ đều rơi xuống. Con người thực được miêu tả đến lạnh gáy nhói tim. Con giết cha, vợ làm điếm nuôi chồng, cô gái tận tình đánh thức tình yêu trong lòng chàng trai xơ cứng vì bất công xã hội, oan trái ngút trời và yêu thương thăm thẳm... Hiện thực muôn màu ấy, gần gũi và quen thuộc, hôm nay, không ít nhà văn đào sâu, nhưng thường chỉ một đôi mảng. Tiếp tục ảnh hưởng lớn lao tới nhiều văn nghệ sĩ và học giả, Dostoevsky trước hết là một con người đúng nghĩa, trong đó có nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà thơ, nhà chính trị. Đôi chiêm nghiệm của ông là chân lý vĩnh cửu. Ví dụ, mỗi hành vi của cá nhân đều tác động tới muôn người. Vợ ông hiểu điều đó lắm. Cho nên, khi ông vĩnh biệt bà, bà mới 35 tuổi, nhưng suốt đời ở vậy, nuôi con và phụng sự công trình của chồng. Ai thắc mắc, thân tình lắm thì bà nhỏ nhẹ: “Sau Dost, tôi lấy ai ư?... Họa chăng Tolstoi vĩ đại?...”.
NHẬT NGUYỄN