Bản sắc văn hóa lúa nước

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trước hết là sự huyền thoại hóa tâm thức của cư dân nông nghiệp lúa nước. Sinh tồn bằng nghề trồng trọt, cấy cày, con người phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên. Do vị trí địa lý đặc biệt, môi trường sinh tồn của người Việt gắn với thiên nhiên khắc nghiệt, nắng lắm mưa nhiều, thiên tai lũ lụt liên miên. Nỗi sợ hãi về thế giới tự nhiên dữ dằn và thần bí của con người trong buổi hồng hoang của lịch sử khiến họ tìm đến một thế lực tự nhiên siêu nhiên hoặc huyền thoại hóa một con người đời thường như một sự nương nhờ và tìm kiếm sức mạnh để hóa giải. Huyền thoại về Hùng Vương là một trong những phương thức tư duy đó của người Việt cổ. Người Việt thờ cúng Hùng Vương như một đấng tối cao. Vua là vị thần linh có thể ban linh khí cho đất đai, nhà cửa, cây trồng, vật nuôi để vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu, cuộc sống thái hòa...

Một góc khu vực Đền Hùng. 

Trong tâm thức dân gian, mỗi nghề gắn liền với một vị tổ nghề, để ngưỡng vọng, biết ơn và cầu cho nghề thịnh đạt. Nghề nông trồng lúa nước không là ngoại lệ. Tâm thức của cư dân nông nghiệp lúa nước đã suy tôn Vua Hùng như vị tổ siêu việt của mình. Với cộng đồng người Việt, đặc biệt, với các làng xung quanh Đền Hùng, Vua Hùng là thần tổ gắn với nghề nông. Trong các huyền thuyết liên quan về các đời Vua Hùng, luôn là vua dạy dân cày ruộng, cấy lúa, khai khẩn đất đai, trị thủy làm thủy lợi để chăm bón, tưới tiêu cho cây cối, mùa màng.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Với triết lý “con người có tổ có tông” hướng về nguồn cội, tri ân các bậc tiền nhân... tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một trong những tín ngưỡng đặc thù, thể hiện phẩm chất thủy chung, tình nghĩa, “uống nước nhớ nguồn” đáng trân trọng của người Việt, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần và là một trong những thành tố tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ thời đại Hùng Vương và bắt nguồn từ truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo truyền thuyết, Hùng Vương là con của cha Lạc Long Quân-giống Rồng và mẹ Âu Cơ-giống Tiên. Tinh thần gia tộc, tình nghĩa đồng bào, coi nhau như anh em trong một nhà được khẳng định không chỉ ở yếu tố cùng một huyết thống mà nó còn là mối quan hệ mang tính chất thần bí vì cùng sinh ra từ một bọc trăm trứng. Ý thức về giống nòi và cộng đồng dân tộc đã dẫn người Việt cổ đến việc sùng bái tổ tiên như một sự nhớ ơn sinh thành của tiền nhân (phục bản phản thủy) và khát vọng lưu truyền nòi giống mãi mãi.

Gắn kết cộng đồng người Việt

Do tính đặc thù của nghề nông trồng lúa nước, một loại hình canh tác mang tính thời vụ, coi yếu tố nước làm cơ sở sinh tồn, việc trị thủy làm thủy lợi là quan trọng, hơn nữa lại nằm ở vị trí địa lý mà thiên nhiên khắc nghiệt, trong tầm ngắm của các thế lực ngoại bang nên việc gắn bó, chung sức, đồng lòng giữa cá nhân với gia đình, làng xã, Tổ quốc để lao động sản xuất, để chống thiên tai và giặc ngoại xâm, bảo đảm sinh tồn là yêu cầu bức thiết của các thế hệ người Việt trong lịch sử. Tinh thần gắn kết cộng đồng đó đã được huyền thoại hóa thành tín ngưỡng thiêng liêng-tín ngưỡng thờ chung một vị anh hùng dân tộc, vị quốc tổ-Vua Hùng.

Người dân trên mọi miền đất nước về dâng hương tại Đền Hùng.

Sự ngưỡng vọng với một tổ nhà, tổ nghề lớn lên thành sự tri ân những người có công khai phá, tạo lập cộng đồng, giữ thành giữ nước. Trong tâm thức của người Việt, Hùng Vương là vị thủy tổ khai sinh ra dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là biểu hiện cao nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thể hiện bản sắc văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Việt Nam, đó là lòng biết ơn đối với Hùng Vương và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước.

Tính cố kết cộng đồng của tín ngưỡng được thể hiện qua những huyền thoại về sự ra đời, tồn tại của triều đại Hùng Vương. Đó là một triều đại gắn liền với truyền thuyết con Lạc, cháu Hồng, với cha Rồng, mẹ Tiên sinh ra trăm trứng rồi xuống biển, lên non nảy nở giống nòi và lập nghiệp. Đó là một vương triều mà phong tục và nền chính trị còn sơ khai, thuần hậu, ở đó quan hệ vua tôi là cha con gần gũi, khoan hòa. Vua Hùng cùng canh tác, cùng săn bắn với con dân, cùng chia sẻ thành quả với mọi người, không phân biệt cao thấp. Khi con dân gặp nạn, lời kêu cứu đầu tiên là gọi “cha”-Vua Hùng. Ý nghĩa đồng bào không chỉ dành cho một gia đình, một dòng họ, mà chung cho cả cộng đồng dân tộc, quốc gia. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng tạo ra tâm thức thống nhất mọi tầng lớp người Việt Nam gắn kết nhau theo nghĩa “đồng bào”, cùng là “con Rồng, cháu Tiên” trong đại gia đình Việt Nam.

Tính gắn kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được nhân lên qua cách các thế hệ người Việt Nam thực hành tín ngưỡng. Hiếm có một dân tộc nào trên thế giới có một ngày Quốc giỗ quy mô, long trọng và thiêng liêng như dân tộc Việt Nam. Dù trải qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, tín ngưỡng đó vẫn được kế truyền không hề đứt đoạn, được thực hành một cách nhuần nhuyễn, trang trọng và bền vững trong cộng đồng người dân Việt Nam. Hiện cả nước có khoảng 1.410 di tích có thờ cúng Hùng Vương và các nhân vật thời Vua Hùng, riêng tỉnh Phú Thọ có gần 330 cơ sở. Không những thế, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương cũng theo bước chân của người Việt đi khắp năm châu.

Khi thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, con người đã xóa nhòa mọi ranh giới không gian, thời gian, để hòa chung trong niềm cộng cảm vô tận. Nó như sợi chỉ đỏ kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai, đồng thời là chất keo liên kết chặt chẽ giữa cá nhân, cộng đồng trong thực tại. Đây là tín ngưỡng thuần Việt đã vượt qua mọi thời đại để trở thành biểu tượng cho khát vọng độc lập tự chủ, cường thịnh và trường tồn của quốc gia, dân tộc. Thờ cúng Hùng Vương vì thế không còn là hoạt động tâm linh đơn thuần như các hoạt động thờ cúng khác mà đã thành hoạt động văn hóa mang tính chất cộng đồng, thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Đồng thời là điểm tựa tinh thần, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình sinh tồn và phát triển.

Biểu hiện của tinh thần yêu nước

Do vị trí địa chiến lược đặc biệt, nằm ở ngã tư giao liên giữa lục địa và hải đảo, Đông-Tây, từ xa xưa, nước ta đã là mảnh đất màu mỡ nằm trong tầm ngắm của các thế lực có tham vọng bành trướng bá quyền. Nguy cơ bị xâm lăng, đồng hóa văn hóa của dân tộc Việt Nam luôn đặt ra trong lịch sử. Yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là yêu cầu mang tính tự thân trong cuộc sinh tồn của người Việt. Yêu nước, tự cường dân tộc trở thành giá trị hàng đầu, cốt lõi trong văn hóa Việt. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một biểu hiện đẹp và trường cửu của tinh thần yêu nước, tự cường mãnh liệt ấy.

Trên đất nước ta, đặc biệt vùng Phong Châu, Phú Thọ, lưu truyền rất nhiều truyền thuyết, huyền thoại về thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Các trò chơi dân gian, các diễn xướng, các lễ hội truyền thống đều gắn kết với chủ đề dựng nước và giữ nước thời đại các Vua Hùng: Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thủy Tinh; Mai An Tiêm; các trò diễn như múa “tùng dí”, rước ông Khiu, bà Khiu, tế nõ nường...; các lễ hội như: Rước vua về làng ăn Tết, rước chúa gái, lễ hội hát xoan, lễ hội Vua Hùng dạy dân trồng lúa...

Với niềm tin thành kính đối với các Vua Hùng-người “có công dựng nước”, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương nêu cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức của người dân về lịch sử-một ý thức hệ sâu sắc như một minh triết được ông cha truyền lại cho đến ngày hôm nay. Khi tôn thờ một vị quốc tổ, có nghĩa là tôn thờ cội nguồn dân tộc, là sự khẳng định bản sắc, bản lĩnh riêng không trộn lẫn với bất cứ dân tộc nào. Hơn thế, truyền thống tôn thờ Hùng Vương là một hình thức biểu hiện mạnh mẽ nhận thức về lịch sử cũng như sự tôn kính của người dân với quá khứ của tổ tiên và DSVH đặc sắc.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã đi vào tâm thức người Việt hàng nghìn đời, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi, thể hiện bản sắc văn hóa riêng có của dân tộc Việt Nam. Hằng năm, đến ngày Giỗ Tổ, từ muôn nẻo đường xuân phơi phới, du khách náo nức tìm về đất Tổ Hùng Vương như tìm về cội nguồn dân tộc. Trên núi Nghĩa Lĩnh ngút ngàn linh khí, thế hệ cháu con lại như thấy ánh hào quang rực rỡ của tổ tiên linh thiêng cùng chim Lạc bay về.

TS NGHIÊM THỊ THU NGA