Ở Việt Nam, với truyền thống trọng người mẹ, đạo Mẫu và tín ngưỡng thờ Mẫu đã được lưu truyền trong cộng đồng từ ngàn xưa. Chính vì thế, UNESCO đã công nhận Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Văn hóa tâm linh của người Việt tôn thờ một trong “tứ bất tử” là phụ nữ: Bà chúa Liễu Hạnh. Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhân vật nổi tiếng là phụ nữ. Vị nữ vương đã đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc để lập nên Nhà nước “Lĩnh Nam riêng một biên thùy” cách đây gần 2.000 năm với cương vực rộng lớn là Hai Bà Trưng (40-43 sau Công nguyên) đã đi vào lịch sử với tư cách anh hùng hào kiệt không chỉ nhân dân ta tôn thờ mà đối phương cũng phải khiếp sợ và nể trọng.

 Tái hiện hình ảnh Hai Bà Trưng tại Lễ hội Đền Hai Bà Trưng năm 2020. Ảnh: MINH THÀNH 

Sang thế kỷ thứ 3, trên đất nước ta đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Bà Triệu (248). Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, là người có sức khỏe, có chí lớn. Năm 19 tuổi, người con gái đầy khí phách kiên cường ấy đã cùng anh-Triệu Quốc Đạt tập hợp những nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, mài gươm luyện võ, chuẩn bị khởi nghĩa. Có kẻ khuyên bà nên lấy chồng, bà khảng khái đáp: “Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người!”(1). Lời nguyền bất hủ của Bà Triệu thực sự là một tuyên ngôn đầy khí phách mà đấng nam nhi nào cũng phải cúi đầu nể phục.

Thái hậu Dương Vân Nga không thể không nhắc tới với sự sáng suốt gạt đi cái “nữ nhi thường tình”, chủ động nhường Hoàng vị nhà Đinh cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lãnh đạo đất nước vì sự an nguy của nhà nước Đại Cồ Việt lúc bấy giờ. Cách đây hàng chục thế kỷ, với cái nhìn tiến bộ mới thấy hành động của bà là hành động của một phụ nữ đầy quyết đoán vì nghĩa lớn của quốc gia dân tộc, đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích dòng họ.

Nguyên Phi Ỷ Lan thao lược, buông rèm nhiếp chính có lời khuyên nhà vua được ghi trong sử sách có ý nghĩa đến muôn đời sau về đạo trị nước. Khi nhà vua hỏi bà về kế sách trị quốc bình thiên hạ, bà thưa rằng: “Muốn nước giàu dân mạnh, hệ trọng nhất phải biết nghe lời can gián của bậc trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai đấy, nhưng lại có lợi cho việc làm, thuốc đắng uống khó chịu nhưng khỏi được bệnh. Điều thứ hai là: Phải xem quyền hành là thứ đáng sợ! Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người, tự mình tu điều đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải “nhân từ với muôn dân”(2)... Bàn về thuật trị quốc như vậy thì thật chẳng kém bất kỳ bậc học giả nam nhi Đông Tây kim cổ! Lời bàn của bà có ý nghĩa thời sự ngay trong xã hội Việt Nam hiện đại. Bà cho rằng”: “Phàm xoay cái thế thiên hạ đều ở “trị” chứ không phải ở sức”, thu tấm lòng thiên hạ ở “nhân” chứ không phải ở “bạo”; “Các bậc tiền vương xưa không sợ dân giàu, mà chỉ sợ nước không yên!”(3)... Với tư tưởng và trí tuệ như vậy, bà đã góp công lớn làm rạng danh triều Lý trong lịch sử Việt Nam.

Biết bao nhân vật là nữ anh hùng, hào kiệt mà sử sách vẫn còn vinh danh, nhân dân thờ phụng, tôn kính truyền đời mà bài báo nhỏ này không thể kể hết được. Ngay trong văn học, nghệ thuật, lĩnh vực vốn thường chỉ của giới mày râu có học mới được ghi danh thì Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương được người đời ngưỡng mộ vì sự tài hoa với tư tưởng tiến bộ “chọc thủng” bức màn bất bình đẳng giới của chế độ phong kiến.

Thời hiện đại, phụ nữ Việt Nam cũng có biết bao nhân vật mà tên tuổi mãi mãi đi cùng năm tháng. Ở miền Bắc, thời kỳ chống Pháp, nữ Anh hùng LLVT nhân dân đầu tiên là Nguyễn Thị Chiên được phong tặng khi mới 22 tuổi. Ở miền Nam, tấm gương nữ anh hùng còn trẻ hơn khi mới 16 tuổi. Đó là chị Võ Thị Sáu, người con gái vùng Đất Đỏ đã anh dũng hy sinh và thành bài ca bất tử đối với tuổi trẻ cả nước. Võ Thị Sáu anh hùng, bất khuất với khí phách oai phong lẫm liệt làm cho những tên đao phủ phải khiếp sợ. Và tinh thần Võ Thị Sáu đã sống lại với “đội quân tóc dài” Đồng khởi ở Bến Tre. Tiêu biểu cho “đội quân tóc dài” ấy ai cũng ngưỡng mộ và nhớ về vị nữ tướng đầu tiên của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, của Quân đội nhân dân Việt Nam-Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Định. Có thể nói, bà và các chiến hữu của bà đã góp công lớn để miền Nam vang danh Thành đồng Tổ quốc, để miền Nam được giải phóng, Việt Nam thống nhất non sông. Và dáng đứng của phụ nữ Bến Tre đã đi vào nghệ thuật như một hình tượng của sự duyên dáng, mạnh mẽ, anh hùng của “những người làm nên lịch sử”. Hình tượng ấy đã đi vào ký ức và tình cảm sâu đậm của nhân dân cả nước.

Nhưng nhắc đến phụ nữ Bến Tre mà không nhắc tới một người phụ nữ đương thời hiện tại-vị nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân có lẽ sẽ là một khiếm khuyết. Tôi nghĩ rằng sau này, sử sách chắc chắn sẽ viết nhiều về bà với những đóng góp to lớn trong thời kỳ đổi mới. Những đóng góp của những nhân vật lịch sử thường có độ lùi thời gian cần thiết để được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan. Còn bây giờ, với tư cách là một đại biểu Quốc hội khóa XI, tôi bày tỏ sự ngưỡng mộ và tự hào về nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân. Bà đã cùng các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước đưa đất nước phát triển toàn diện trong nhiệm kỳ qua, là cơ sở vững chắc để toàn Đảng, toàn dân ta hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành nước phát triển trong những nhiệm kỳ tới. Bà đã kế thừa xuất sắc sự nghiệp của các vị Chủ tịch Quốc hội tiền bối là nam giới. Quốc hội Việt Nam với bước đi từ “Quốc hội tham luận sang Quốc hội tranh luận” có đóng góp to lớn của bà. Trên cương vị Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, bà đã hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 41 và cùng với các thành tựu chung của đất nước, đưa vị thế của Việt Nam cao hơn trên trường quốc tế. Là người Việt Nam, tôi cảm thấy tự hào mỗi khi bà xuất hiện trên các diễn đàn trong nước và quốc tế. Nếu có thể nói ngắn gọn thì bà thực sự làm duyên dáng thêm, mạnh mẽ thêm dáng đứng Bến Tre và góp phần tô đậm 8 chữ vàng về phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” thời kỳ đổi mới.

Có thể nói, lịch sử Việt Nam từ xưa tới nay không ai có thể đo đếm được những đóng góp và sự hy sinh của những người phụ nữ, những người mẹ. Không ai có thể quên được công lao to lớn của các Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Hình tượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng sẽ mãi mãi ghi khắc trong trái tim những người có lương tri từng trải qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầy gian khổ. Đảng và Nhà nước đã có chính sách thể hiện sự tri ân của nhân dân đối với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đồng thời có chính sách thúc đẩy tiến bộ phụ nữ mạnh mẽ, cụ thể và hiệu quả.

Tôi tin rằng, với chính sách của Đảng và Nhà nước ta, phụ nữ Việt Nam sẽ ngày càng có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Sẽ có nhiều phụ nữ giữ vai trò trọng trách trong hệ thống chính trị và bộ máy của Nhà nước. Và chắc chắn họ sẽ đóng góp to lớn hơn nữa vì một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

(1) Theo Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1971, trang 109

(2), (3) Theo Nguyên Phi Ỷ Lan-Duyên kỳ ngộ, NXB Giáo dục Việt Nam 2009, tài liệu lưu tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam

TS NGUYỄN VIẾT CHỨC