Đặc biệt hơn, ngôi làng ấy được ví như “làng di sản” bởi hội tụ rất nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo bao đời nay, trở thành điểm đến của nhiều du khách.
Dấu ấn thời gian
Làng Thổ Hà (xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) có 3 mặt giáp sông, muốn đến được đây chỉ có hai con đường là từ Bắc Ninh đi đò ngược qua sông Cầu và từ Bắc Giang xuôi xuống bằng đường bộ. Thổ Hà là một trong số ít làng cổ mà các thiết chế văn hóa nơi đây đã đi vào nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, vào những lời ca câu hát mà bất cứ người dân địa phương nào cũng có thể nhớ nằm lòng vài ba câu để “tấu” lên mỗi dịp hội hè hay buổi gặp mặt. Đó là một trích đoạn tuồng cổ, một câu dân ca quan họ, là những lễ hội chuẩn mực lệ cổ và thậm chí là cả ca trù... Đó còn là những công trình kiến trúc truyền thống mang đậm dấu ấn một làng quê Bắc Bộ chính gốc, như: Cây đa, giếng nước, sân đình... Tất cả đã được ghi danh di sản văn hóa cấp quốc gia. Các di sản hội tụ ở đây để rồi thấm vào từng vỉa đất, mạch nước, chắt chiu và lan tỏa trong đời sống, tâm hồn mỗi người dân Thổ Hà.
|
|
Nghệ thuật hóa trang và diễn tuồng ở Thổ Hà được bảo tồn và phát huy hàng trăm năm nay. |
Đưa tôi đi thăm làng, vào tận sâu những ngõ nhỏ, con hẻm ấy là một màu đỏ cũ kỹ của những bức tường gạch chỉ nghiêng. Ông Trịnh Đắc Thiện, người từng có một thời gian dài làm cán bộ văn hóa xã Vân Hà tự hào kể về một loạt di sản độc đáo ở Thổ Hà, từ chuyện thời kỳ phong kiến, làng quê này từng được nhà vua ban sắc “Mỹ tục khả phong” cho đến những ngôi nhà cổ có tuổi bằng mấy đời người, rồi lễ hội làng độc nhất vô nhị chẳng giống ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam. “Phải trực tiếp đến đây tham dự các sự kiện của làng mới thấy nó khác biệt, sinh động và đậm đà đến thế nào”, ông Thiện khoe.
Thổ Hà có những con ngõ đến kỳ dị, ngõ nhỏ đến nỗi chỉ vừa đủ cho hai người đi bộ lách tránh nhau và phía trên đỉnh đầu được người dân tận dụng để phơi bánh đa nem. Thế mà hàng trăm năm nay, người dân vẫn sinh sống như thế, nó đã trở thành bản sắc của vùng quê này. Ngày nay, trước tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, người dân nơi đây vẫn bảo lưu khá nguyên vẹn những truyền thống lễ giáo, gia phong tốt đẹp. Theo dân làng, cổng làng Thổ Hà được xây dựng vào năm 1692, với kiến trúc bề thế, bức đại tự trên cổng làng có ghi: Thổ chi tân (đất thiêng bền); hà nguyên hậu (nước nguồn vô tận, phúc lộc trời ban cho làng Thổ Hà còn dài mãi). Người Thổ Hà trọng tình, mến khách, vì vậy, cổng làng là một trong những điểm đến trong hành trình của nhiều du khách. Khách đến nhà chơi lần đầu, chủ ra đón ở chính cái cổng ấy. Khách về cũng vậy, cứ bắt tay nhau, vỗ vai nhau ở đây đến bịn rịn, lưu luyến khôn nguôi. Ở Thổ Hà còn một điều hiếm có nữa, bởi dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời vẫn còn hiển hiện trong những bức tường cổ, nhiều ngôi nhà được xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm, không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn sông Cầu để kết dính mà vẫn trầm mặc, bền chặt qua nắng mưa, tháng ngày.
Băn khoăn du lịch
Trong số rất nhiều di sản của làng cổ Thổ Hà, có lẽ dân ca quan họ là thứ dễ khiến du khách mềm lòng và say đắm nhất. Đứng trên bờ đê sông Cầu, tôi cảm nhận được một không gian thật nên thơ, tĩnh mịch, cảnh tượng trên bến dưới thuyền với cái mênh mang của sóng nước dạt dào. Trong suy nghĩ bất giác của tôi, biết đâu những làn điệu quan họ cổ như “Gọi đò”, “Ngồi tựa mạn thuyền”, “Giã bạn”… được ra đời từ chính không gian ấy. Bằng lối chơi giản dị nhưng vẫn giữ được lề lối cổ xưa, các liền anh, liền chị nơi đây đã tạo nên chất riêng. Nghệ nhân Ưu tú Phú Hiệp, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Quan họ Thổ Hà được xem là người “biết đủ lối, thuộc đủ câu” trải lòng rằng: Nói đến Thổ Hà là nói đến quan họ. Quan họ của làng có nét độc đáo mà khắp vùng Kinh Bắc không đâu có được, đó là cảnh hát trên sông. Bao năm chơi quan họ, liền anh, liền chị Thổ Hà chưa bao giờ cảm thấy hổ thẹn với tiền nhân bởi lối chơi không dễ dãi, đặc biệt là chưa bao giờ thấy ai phải phàn nàn việc “ngả nón xin tiền”. Họ chơi vì đắm đuối, hát bằng trái tim chứ không nặng chuyện tiền nong, thóc lúa. “Anh hai” Phú Hiệp bảo: “Hát quan họ thì dễ, nhưng chơi quan họ thì không phải làng nào, người nào cũng hiểu và làm được. Chơi thì thanh tao, khiêm nhường, có lề, có lối và đắm đuối hết lòng”.
Khách du lịch đến Thổ Hà đều ước ao được nghe các liền anh, liền chị trổ vài câu quan họ cổ. Có người bảo dân Thổ Hà sao chẳng thức thời, ngần ấy di sản cha ông để lại mà chẳng biết cách làm du lịch; khách đến nghe hát, các liền anh, liền chị chỉ cần biểu diễn là có thù lao, thậm chí làm tốt thì còn... sống khỏe. Thế nhưng, Nghệ nhân Ưu tú Phú Hiệp từng có lúc phải thốt lên: “Không phải người dân chúng tôi không ý thức được việc phát triển du lịch nhưng quả thực còn nhiều băn khoăn lắm”. Bản thân nghệ nhân Phú Hiệp từng hát dân ca quan họ phục vụ nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế khi về làng, nhưng “Khi xong xuôi tất cả lại về”, ngoài những tràng pháo tay và lời khen ngợi, anh hầu như chẳng được lợi ích kinh tế nào. “Người quan họ rất ngại nói đến tiền bạc nên cứ “đành lòng vậy, cầm lòng vậy”, liền anh Phú Hiệp nói. Bởi thế, nghề làm bánh đa nem, cộng thêm cắt tóc ở cổng làng chính là “cần câu cơm” và xa hơn là để tiếp sức cho nghệ nhân Phú Hiệp theo đuổi đam mê, gắn bó với di sản.
Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Mai, Phó trưởng Khoa Du lịch (Viện Đại học Mở Hà Nội): Để biến tiềm năng thành sản phẩm du lịch đòi hỏi nhiều yếu tố, vì du lịch là ngành tổng hợp, có tính liên ngành. Ở Thổ Hà cần đáp ứng các điều kiện, như: Vận chuyển, lữ hành, lưu trú, điểm tham quan và ăn uống..., nhưng hiện tại điểm mạnh ở đây chỉ mới có điểm tham quan, các yếu tố còn lại rất hạn chế. Đây là lý do khiến các doanh nghiệp lữ hành khó tiếp cận mở dịch vụ và đưa khách đến. Phần lớn du khách đến Thổ Hà hiện nay là tự phát, các nhóm nhỏ và hầu như không lưu trú. Do đó, vấn đề ở đây là cần nâng cấp tuyến đường bộ tiếp cận làng, bến thuyền và các phương tiện chuyên chở, bố trí bãi đỗ xe, khu dịch vụ…
Đương nhiên cũng có ý kiến cho rằng, phát triển du lịch ở Thổ Hà cần bảo đảm hài hòa để không ảnh hưởng tới di sản, tránh những tác động tiêu cực phá vỡ cảnh quan, môi trường tự nhiên lẫn môi trường văn hóa. Ngoài ra còn phải có những cơ chế rõ ràng để người dân hưởng lợi trực tiếp từ hoạt động du lịch.
Bài và ảnh: ĐÔNG KHÁNH