Cận kề cái chết

Từ trung tâm thị trấn Cô Tô (huyện Cô Tô) đến ngọn hải đăng chừng 5km. Hải đăng Cô Tô nằm trên một ngọn núi thuộc địa phận xã Đồng Tiến, là điểm cao nhất trên đảo. Đường từ chân núi lên ngọn hải đăng một bên là biển, một bên là núi, quanh co, khúc khuỷu dưới những tán lá rậm rạp, nhiều đoạn rêu xanh phủ đầy do hiếm nắng. Hải đăng Cô Tô thuộc Trạm Quản lý đèn biển Cô Tô, thuộc Xí nghiệp Bảo đảm an toàn hàng hải Đông Bắc Bộ (Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Bắc).

Chúng tôi gặp anh Nguyễn Công Giang (sinh năm 1964), Trạm trưởng Trạm Quản lý đèn biển Cô Tô, một người cao lớn, điềm tĩnh, khuôn mặt vuông vức, nước da sạm nắng. Anh Giang đã có gần 35 năm làm việc tại đây.

Trạm trưởng Nguyễn Công Giang là người tỉnh Thái Bình, ra đảo Cô Tô và bắt đầu làm việc tại Trạm Quản lý đèn biển Cô Tô từ năm 1983-khi anh 18 tuổi-cho đến nay. Trước đó, cụ thân sinh của anh Giang đã lên đảo và làm việc tại trạm từ năm 1976. Có điểm đặc biệt, người con trai của anh Giang là Nguyễn Công Thành (sinh năm 1992) cũng đang theo nghiệp bố. Như vậy, gia đình anh Giang đã có ba thế hệ làm công việc này.

leftcenterrightdel
Trạm Quản lý đèn biển Cô Tô.

Trạm Quản lý đèn biển Cô Tô được xây dựng từ năm 1962, cao 10m, bên trên là cột sắt cao 3m. Ban đầu phải chèo thuyền nan đi đốt đèn biển bằng dầu hỏa. Đến năm 1992, trạm được nâng cấp cơ sở, cao hơn, đèn sáng hơn, thiết bị hiện đại hơn, con người được đào tạo cơ bản hơn. Anh Giang cho biết, hiện nay, ngọn hải đăng được đầu tư chiếu sáng bằng pin năng lượng mặt trời với hệ thống tự động và bán tự động điều khiển.

Trạm trưởng Nguyễn Công Giang còn nhớ mãi ngày anh bước chân lên đảo. Lúc đó đúng dịp tháng 7 mưa ngâu, trời mịt mù. Mọi người phải di chuyển từ tàu xuống thuyền nan để vào bãi cát. Đường lên trạm âm u, tối tăm, không có lối đi rõ ràng, cả ngày không có lấy một bóng người.

Gần 35 năm công tác, có những kỷ niệm mà Trạm trưởng Nguyễn Công Giang không thể tin nổi là mình đã vượt qua và sống sót cho đến bây giờ. Trạm là “địa chỉ” sấm sét thường lui tới, nhiều lần sét đánh thủng mái nhà, hiện tại vẫn còn vết tích. Anh nhớ lại: Năm 1985, vào mùa mưa bão, mọi người ở trạm đi tập huấn, chỉ còn tôi và hai người nữa trên trạm. Trạm có 3 phòng cho anh em ăn ở, sinh hoạt, mỗi người một phòng. Đêm đó trời mưa, đang thiu thiu ngủ thì tôi choàng tỉnh bởi tiếng sét xé ngang trời. Sét lại đánh vào trạm, mạnh đến mức hất tôi từ trên giường xuống dưới đất. Theo lời dặn của mọi người, tôi cứ nằm như vậy, trong lòng lo lắng không biết phòng bên cạnh có ảnh hưởng gì không. Ngớt mưa tôi mới đánh tiếng gọi. Gọi ba lần thì ông chú thưa. Tôi hỏi: “Chú ơi, sét đánh ở đâu thế?”-“Chú cũng không biết”. Hai người tới mở cửa phòng máy thì một lớp khói dày đặc phả ra. Phòng máy khói nghi ngút. Chúng tôi đóng cửa lại ngay. Sáng hôm sau mới dám mở ra kiểm tra thì thấy sét đánh vào nền nhà, tạo một hố sâu 15cm, mùi cháy vẫn khét lẹt.

Lần khác, đó là một buổi chiều Nguyễn Công Giang xuống làng mua thức ăn. “4 giờ chiều, mưa gió bỗng kéo đến. Một tiếng sét vang trời, tôi chột dạ nghĩ: Chết rồi, sét lại đánh lên trạm rồi. Một lúc sau mưa tạnh, tôi chạy vội về. Khi còn cách trạm khoảng 15m tôi hắng giọng gọi ông chú đúng ba câu. Không thấy động tĩnh gì, quăng túi thức ăn xuống đất, tôi lao vào cửa, nghĩ “kiểu này dễ chú có chuyện rồi”. Vào mới thấy chú đang bò lồm cồm, sét đánh vào bờ tường, cát, gạch bắn ra đập vào người chú đỏ rát. Chú thều thào: “Mày xem, sét đánh đỏ hết người chú đây này”-Trạm trưởng Giang kể lại.

Ngày nay, hệ thống tiếp địa đã kiên cố hơn, những người làm việc trên trạm cũng đã yên tâm hơn phần nào. Mỗi khi trời mưa, sét đánh, nếu đèn chính gặp sự cố thì họ chỉ điều khiển cho đèn phụ hoạt động, không lên khắc phục ngay mà chờ đến hôm sau. Trước những cơn bão, họ có thể được cảnh báo, còn mưa kèm sấm sét thì không thể lường trước.

Trong một ca trực

Trạm trưởng Nguyễn Công Giang đưa chúng tôi đi xem những công việc phải làm trong một ca trực. Bên trái khu nhà chính có một phòng nằm biệt lập, nơi đặt hàng chục chiếc bình ắc quy. Công việc đầu tiên là kiểm tra ắc quy, kiểm tra dòng nạp của năng lượng mặt trời xem có ổn định hay không.

Tiếp theo, anh Giang đưa chúng tôi tới một khu nhà khác, nằm phía đối diện khu nhà chính, nơi đặt máy phát điện. Công việc tiếp theo là kiểm tra các con ốc, nhiệt độ máy phát và hệ thống điện của máy.

Sau khi kiểm tra thấy ắc quy và máy phát điện hoạt động bình thường, tôi được dẫn vào khu nhà chính, đi qua chiếc cầu thang xoắn ốc lên khoảng sân rộng ở tầng hai, nơi đặt hệ thống bảng thu năng lượng mặt trời để làm công việc thứ ba-vệ sinh, kiểm tra hệ thống này. “Vào mùa đông, ánh sáng thu được ít thì chúng tôi phải cho máy phát chạy bổ sung”-anh Giang cho biết thêm.

Cuối cùng, quay lại chiếc cầu thang hình xoắn ốc gồm 72 bậc, tôi được vào bên trong tháp đèn. Đèn chính được đặt bên trong một lồng kính, rộng chừng 2m2, đèn có ánh sáng trắng, chớp nhóm (2+1) chu kỳ 12 giây, phạm vi chiếu sáng 360 độ, tầm hiệu lực sáng là 22 hải lý, nằm cách mặt đất 16m. Người trực ca phải vệ sinh đèn và vệ sinh bên trong, bên ngoài lồng kính bảo vệ đèn rồi tiến hành quan sát hàng hải. Đây là công việc cuối trước khi cho chạy đèn.

Mùa hè, trời tối muộn nên hải đăng Cô Tô thường hoạt động từ 18 giờ 30 phút cho đến 6 giờ hôm sau. Mùa đông, đèn hoạt động sớm hơn, từ 17 giờ 30 phút. Trạm hiện có 8 người, 6 người luân phiên trực. Một ca trực ban ngày kéo dài 4 tiếng đồng hồ, trực đêm 2 tiếng. Toàn bộ nhân viên đều ăn ở, làm việc tại chỗ. Buổi tối, khi đèn hoạt động, người trực phải liên tục theo dõi các thông số kỹ thuật của đèn xem đèn hoạt động có đúng theo quy định thông báo hàng hải hay không, nếu phát hiện chênh lệch thời gian sáng (ví dụ thời gian sáng theo quy định là 0,03 giây nhưng lên 0,035 giây) là phải điều chỉnh ngay, không được phép chậm hơn hay nhanh hơn.

leftcenterrightdel
Trạm trưởng Nguyễn Công Giang giới thiệu về công năng của đèn biển Cô Tô. Trong ảnh: Bên trong lồng kính đặt đèn biển.

Thầm lặng nghề gác đèn biển

Trước kia, nguồn nước thiếu thốn nên những người làm việc tại trạm phải đi xuống khu dân cư bằng đường mòn để gánh nước. “Ngày đó còn thanh niên, sáng dậy gánh 2-3 gánh nước là dùng đủ cho cả ngày. Giờ có đường sá thì xe chở nước lên tận nơi. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tận dụng nguồn nước mưa”-Trạm trưởng Nguyễn Công Giang nói.

Hiện trạm có 8 người thì 7 người sống xa gia đình. Các anh từ nhiều miền quê tụ họp lại: Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định... Cả trạm chỉ có gia đình Trạm trưởng Nguyễn Công Giang là định cư tại đảo Cô Tô này. Theo quy định, mỗi người 3 tháng được về thăm nhà một lần trong vòng một tháng, luân phiên nhau. Tuy nhiên, thường có biến động nên nhiều lúc họ chỉ về nửa tháng rồi trở lại ngay.

Anh Doãn Văn Dương (sinh năm 1976), người Giao Thủy, Nam Định, đã làm tại trạm từ năm 1999 chia sẻ, gia đình anh hiện tại ở Giao Thủy, vợ anh là người khác xã, cùng huyện. Anh chị lấy nhau năm 2004, cưới xong, ba ngày sau anh quay lại trạm làm việc ngay. Đêm trước khi đi, hai vợ chồng trẻ khóc sụt sùi. Đến nay, anh chị đã có 3 người con, 2 trai, 1 gái. Do tính chất công việc, anh Dương không có thời gian về nhà nhiều. 18 năm qua, chẳng mấy cái Tết anh có mặt ở nhà. Ba lần vợ đẻ là cả ba lần anh vắng mặt, chị phải tự vật lộn.

Đôi khi do quá mệt mỏi, vợ anh gọi điện ấm ức: “Người ta hết giờ làm việc là về với gia đình, anh thì cứ đi biền biệt như thế. Về thì ít, có về cũng chưa làm xong được việc gì đã lại đi. Cái máy bơm hỏng em cũng phải tự mày mò sửa”.

Lấy nhau đến nay đã được 13 năm, chị chưa lần nào có điều kiện ra trạm thăm chồng. “Ngày trước liên lạc khó khăn chứ bây giờ liên lạc tốt rồi, chúng tôi vẫn gọi điện cho nhau hằng ngày. Lương tôi được hơn 7 triệu đồng/tháng, chuyển qua thẻ, tôi đưa luôn thẻ cho vợ. Ở đây tôi cũng chẳng tiêu pha gì, đã có trạm trưởng và các anh em nuôi rồi”-anh Dương cười xòa, nói.

Cuộc sống trên trạm là vậy nhưng cũng có nhiều niềm vui. Trạm trưởng Nguyễn Công Giang kể lại, năm 1986, con tàu mang quà, thực phẩm cho anh em trên trạm xuất phát ở Hải Phòng từ ngày 23 tháng Chạp âm lịch mà ra đến nơi đúng Mồng Một Tết. Tất cả mừng mừng tủi tủi rớt nước mắt. Rồi năm 1990, trạm được xí nghiệp cung cấp cho một chiếc ti vi đen trắng. Thế là cứ dịp có bóng đá, cả làng ở dưới núi kéo nhau lên xem. Anh em trên trạm lúc đó hơn bà con là có điện và ti vi. Bà con lên, người mang bánh, người mang quà và tấm lòng hồ hởi, điều đó đã động viên những người ở trạm rất nhiều.

Kể lại những khó khăn, thiếu thốn, Trạm trưởng Nguyễn Công Giang và những người làm tại đây không thể tin nổi mình đã có thể vượt qua được những tháng năm như thế. Giai đoạn năm 1990, rất nhiều người bỏ nghề. Chúng tôi hỏi các anh: Vậy động lực nào giúp bám trụ được với nghề cho đến ngày hôm nay? Mọi người nhìn nhau, mỉm cười, nói: Nếu các anh đi biển vào ban đêm sẽ hiểu cảm giác của những người đi biển. Những khi mù trời bị mất phương hướng mà nhìn thấy ngọn đèn là nhìn thấy sự sống, cảm thấy vẫn có người bên cạnh mình!

Nằm trên đỉnh núi với độ cao 102m so với mực nước biển, ngọn hải đăng Cô Tô là nơi lý tưởng để ngắm toàn cảnh hòn đảo. Đứng trên tháp cao, phóng tầm mắt bốn bề là biển xanh bao la, choáng ngợp, hứng lấy cơn gió phương xa mát rượi rồi đón chờ khoảnh khắc giao thoa giữa trời và biển, những người gác đèn biển dường như quên hết mọi vất vả, khổ cực, những thiếu thốn về vật chất và tinh thần. Mấy chục năm qua, những người làm việc tại Trạm Quản lý đèn biển Cô Tô vẫn đối mặt với "thần sét", âm thầm ngày đêm làm tốt nhiệm vụ nơi đầu sóng ngọn gió.

Bài và ảnh: HOÀNG LIÊN VIỆT