Và câu chuyện nhân ngày truyền thống của học viện, cũng khởi đầu từ sự kiện này...

Phóng viên (PV): Thưa Thiếu tướng Đỗ Quyết, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y đang khẳng định rõ vị thế là bệnh viện hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực ghép tạng. Trước ca ghép phổi vừa rồi, bệnh viện đã đi đầu và thu được thành công trong ghép thận, ghép gan, ghép tim, ghép đa tạng tụy-thận... Tại sao “103” lại liên tiếp thu được những thành công vang dội như thế?

Thiếu tướng Đỗ Quyết: Ghép tạng là một thành tựu lớn lao của y học thế giới và là niềm mơ ước từ lâu của ngành Ngoại khoa Việt Nam. Mục đích của ghép tạng là để cứu sống người bệnh bị bệnh lý tạng giai đoạn cuối-đã điều trị nhiều biện pháp nhưng không có kết quả. Như vậy, đối với những bệnh nhân này, ghép tạng là biện pháp duy nhất và cuối cùng để điều trị và giúp mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh, trong đó đặc biệt nhất là chất lượng cuộc sống. Ngay từ đầu thập niên 1970, GS, TSKH Lê Thế Trung đã thực hiện ghép thận thực nghiệm tại Học viện Quân y. Những trường hợp ghép tạng đầu tiên ở Việt Nam (ghép thận-1992, ghép gan-2004 và ghép tim-2010...) đã được thực hiện thành công tại Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y. Những thành công đó là nhờ có quyết tâm của ngành y tế, quá trình nghiên cứu, học tập và chuẩn bị chu đáo, sự kết hợp quân dân-y... Trong những năm gần đây, công tác ghép tạng tại Bệnh viện Quân y 103 đã có bước phát triển vượt bậc với những kết quả rất đáng khích lệ. Trong thành công, chúng tôi luôn nhớ đến sự giúp đỡ của các bệnh viện lớn trong cả nước như Chợ Rẫy, Việt Đức, Trung ương Huế, Nhi Trung ương và nhiều bệnh viện khác cũng như những chuyên gia ghép tạng hàng đầu của các Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản và một số nước khác.

Về phần mình, các chuyên gia ghép tạng của Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y cũng đã tích cực tham gia có hiệu quả trong triển khai ghép tạng ban đầu tại nhiều cơ sở y tế của cả nước. Học viện Quân y đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực ghép tạng. Trong đó, phải nhấn mạnh những nỗ lực và chủ động của đội ngũ y sĩ, bác sĩ của bệnh viện và học viện đã khắc phục nhiều khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ; cùng với đó là công tác tổ chức tốt, có sự đoàn kết chặt chẽ và hợp tác khoa học giữa các chuyên ngành và các cơ sở y tế trong nước, sự kết hợp quân-dân y, trong đó có sự hỗ trợ của ngành quân y và hợp tác quốc tế có hiệu quả.

PV: Tôi nhớ, Các Mác có nói: "Trong khoa học, không có con đường nào là bằng phẳng, dễ dàng, chỉ có những ai không sợ chùn chân, mỏi gối mới có thể bước đến đỉnh cao huy hoàng của nó”. Các thầy thuốc ở Học viện Quân y đã nhiều lần đi đầu trong công tác ứng dụng các kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại để vừa nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; vừa nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Để có được điều đó, chắc hẳn trong lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện phải có những chủ trương, giải pháp rất táo bạo?

Trung tướng Nguyễn Trọng Chính: Nói táo bạo thì hơi quá, nhưng trong chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác đào tạo; công tác khám bệnh, thu dung, cấp cứu và điều trị thì phải sát thực, biết “đi trước, đón đầu”, chủ trương một thì biện pháp phải mười, quyết tâm phải hai mươi.

Lúc nãy, nhà báo có nói về những lần đầu tiên các thầy thuốc của học viện thực hiện thành công các kỹ thuật ghép tạng; năm 2016 vừa qua, cũng còn rất nhiều chữ “đầu tiên” nữa được thực hiện mang lại kết quả tốt đẹp. Ví dụ, là năm đầu tiên toàn học viện thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; cũng là năm đầu tiên việc thực hiện Nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Học viện về “Lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ, học viên, sinh viên Học viện Quân y giai đoạn 2015-2020 và những năm tiếp theo”.

leftcenterrightdel
Lãnh đạo Học viện Quân y kiểm tra hoạt động diễn tập y học quân sự cuối khóa của học viên. 

Tại sao Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện phải quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo đề án nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, giảng viên và học viên, sinh viên. Việc làm chủ các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới mới chỉ là một tiêu chí, hướng đến xây dựng nền y học tiên tiến, hiện đại còn phải chú ý đến nhiều vấn đề, như chất lượng chăm sóc bệnh nhân và tư duy y khoa... Muốn có các bác sĩ giỏi suy luận, giỏi phân tích bệnh án; muốn có những bài báo khoa học đăng trên các tạp chí y khoa tầm cỡ của thế giới thì ngoại ngữ là chìa khóa để bác sĩ mở cánh cửa hội nhập. Vì vậy, năm qua, học viện đã thành lập Trung tâm Ngoại ngữ, tổ chức các lớp tiếng Anh trình độ B1, B2; đào tạo được nhiều cán bộ, giảng viên làm phiên dịch. Nhiều biện pháp được thực thi, như việc ban hành quy định bảo vệ luận văn tốt nghiệp của bác sĩ nội trú bằng tiếng Anh. Từ quyết tâm của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan, đơn vị trong học viện đã tổ chức các câu lạc bộ ngoại ngữ, duy trì việc đọc báo, viết bản tin nội bộ bằng song ngữ, chủ động mời cán bộ khoa học nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu... Học viện cũng hỗ trợ kinh phí cho các tác giả có bài báo được công bố trên các tạp chí y khoa quốc tế.

Nghề y là nghề đặc biệt, một trong những nét đặc biệt đó là người bác sĩ phải học tập suốt đời, học không ngừng, dừng học không phải là đứng lại mà là tuột dốc. Tôi có lần nói chuyện với các em học viên, sinh viên, là dù ra trường về công tác ở những nơi xa xôi, hẻo lánh thì các em cũng đừng xa rời quyển sách, đừng quên việc học ngoại ngữ hằng ngày. Nhiều em sau 5 năm ra trường, quay trở lại học tiếp đã làm các thầy ngạc nhiên vì trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ đã được nâng cao hơn hẳn. Đó chính là nhờ tự học, mà trong “thế giới phẳng” hiện nay, nếu giỏi ngoại ngữ thì việc tự học rất mau tiến bộ.

PV: Thưa Trung tướng Nguyễn Trọng Chính, hiện nay các cơ sở đào tạo nói chung đều tìm cách giảm thời gian đào tạo, riêng nghề y là nghề mà thời gian đào tạo lâu nhất. Một bác sĩ phải qua đào tạo tới 6 năm, riêng bác sĩ quân y thì tới 6,5 năm. Tôi tự hỏi, không biết đào tạo bác sĩ quân y có gì khác với đào tạo bác sĩ thường mà thời gian đào tạo nhiều như thế?

Trung tướng Nguyễn Trọng Chính: Đào tạo bác sĩ quân y về chuyên môn thì cơ bản như đào tạo một bác sĩ đa khoa ở các trường đại học y khác.

Đào tạo bác sĩ quân y, sở dĩ thời gian dài hơn, xuất phát từ yêu cầu cao của người bác sĩ trong cứu chữa thương binh, bệnh binh, phục vụ nhiệm vụ quân sự-quốc phòng. Bác sĩ quân y đồng thời là sĩ quan quân đội, đòi hỏi phải có sức khỏe, trình độ tay nghề cùng bản lĩnh chính trị vững vàng, biết cống hiến, dám hy sinh, có ý thức kỷ luật cao, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi quân đội yêu cầu; phải biết tổ chức chỉ huy quân y ở các cấp độ khác nhau để bảo đảm cứu chữa thương binh trong chiến đấu và còn cả biết chỉ huy chiến đấu cấp phân đội, khi tình huống xảy ra trong chiến tranh. Học viên Học viện Quân y năm đầu tiên phải trải qua khóa đào tạo quân sự, được học môn Chỉ huy Quân y và cuối khóa phải trải qua diễn tập tổ chức cứu chữa điều trị thương binh, bệnh binh. Năm vừa rồi, học viện đã tập trung chỉ đạo, chuyển từ huấn luyện dã ngoại sang diễn tập y học quân sự cuối khóa với quy mô rộng hơn; giúp học viên nắm chắc nội dung tổ chức quân y từ cấp đại đội đến cấp sư đoàn để các em biết vận dụng vào thực tiễn khi về đơn vị. Nhà trường cũng tổ chức tốt lớp đào tạo ngắn hạn cho cán bộ chỉ huy quân y cấp chiến dịch và chiến thuật tiếp theo phù hợp, sát với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình tác chiến mới. Vì thế, việc đào tạo một bác sĩ quân y có thời gian dài hơn so với đào tạo bác sĩ đa khoa.

PV: Tôi được xem cuốn Bản tin nội bộ của nhà trường có tên là “Áo trắng, áo xanh”, quả là một tờ tin đặc sắc. Nghề y có lời thề Hy-pô-crát, không biết các bác sĩ tốt nghiệp Học viện Quân y có làm lễ tuyên thệ thực hiện lời thề này không?

Thiếu tướng Đỗ Quyết: Nghề y thì không ai là không mang trong mình tâm nguyện thực hiện lời thề Hy-pô-crát, nhưng ở Học viện Quân y, học viên còn có thêm nhiều lời thề cao quý khác nữa. Khi nhập ngũ, trở thành quân nhân, các em đã mang trong mình 10 lời thề danh dự của quân nhân; khi được kết nạp Đảng, các đồng chí ấy còn mang trong mình lời thề thiêng liêng trước Đảng kỳ và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tôi muốn nói điều ấy để thấy rằng, cấu trúc nhân cách trong mục tiêu đào tạo bác sĩ quân y của nhà trường là rất cao; nhà trường không chỉ dạy nghề mà còn dạy người. Dạy nghề và dạy người quan hệ biện chứng, đan xen, liên hệ mật thiết với nhau. Chẳng hạn, dạy người là dạy đạo đức của người thầy thuốc, mà đạo đức của người thầy thuốc thì trước hết anh phải có tài, có năng lực khám, chữa bệnh. Cho nên, lúc nào chúng tôi cũng đặt lên hàng đầu việc nâng cao chất lượng học tập thực hành lâm sàng cho cả đối tượng đại học và sau đại học; luôn chú trọng tăng thời gian thực tập lâm sàng ở nhiều bộ môn nội và ngoại; chuẩn hóa nội dung, quy trình giảng dạy thực hành lâm sàng và việc quản lý chỉ tiêu thực hành lâm sàng. Nhà trường có hai bệnh viện thực hành lớn (Bệnh viện Quân y 103 và Viện Bỏng Quốc gia) và Trung tâm đào tạo, nghiên cứu Công nghệ phôi nhưng như thế là chưa đủ, chúng tôi có chương trình hợp tác với rất nhiều bệnh viện lớn ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, ở trong và ngoài quân đội để đưa học viên, sinh viên đi thực tập. Bệnh viện Quân y 103 đang được Bộ Quốc phòng đầu tư xây dựng trở thành bệnh viện hạng đặc biệt, tuyến cuối toàn quân, nên trong tương lai sẽ là một bệnh viện thực hành lớn hàng đầu của đất nước, xứng tầm bệnh viện thực hành của một trường đại học y khoa trọng điểm quốc gia. Đó cũng là điều kiện tốt để học viên, sinh viên tiếp xúc với nhiều mặt bệnh, nâng cao kỹ năng thực hành lâm sàng, đáp ứng tốt các mục tiêu đào tạo đặt ra.

PV: Trân trọng cảm ơn hai đồng chí về cuộc trò chuyện này!

VŨ QUYẾT THẮNG (thực hiện)