QĐND - 94 tuổi vẫn hằng ngày quan tâm đến quân cơ, quốc sự; Đại tướng Nguyễn Quyết hấp dẫn người cùng trò chuyện bằng sự tinh anh, mẫn tiệp hiếm thấy ở những người có tuổi như ông. Càng nói, ông càng bộc lộ ngôn ngữ hùng biện của một vị tướng đã xông pha trận mạc và phong thái, bản lĩnh của một nhà chính trị dày dạn. Ông chủ động cuốn chúng tôi vào chủ đề câu chuyện...

Đại tướng Nguyễn Quyết

Đại tướng Nguyễn Quyết: Làm cách mạng là phải sáng tạo, sáng tạo phải táo bạo khi thời cơ đến, vì thời cơ không bao giờ đến hai lần. Tôi thường suy nghĩ về những sáng tạo vượt bậc của Đảng, của Bác Hồ trong suốt 86 năm qua, lại nghĩ về những quyết định táo bạo của mình trong cuộc đời làm cách mạng, càng nghĩ càng thấy thấm thía.

Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám là quyết định chớp thời cơ vô cùng sáng tạo của Đảng và Bác Hồ. Tuy khởi nghĩa giành chính quyền là một phương pháp cách mạng đã được Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ ra, nhưng khởi nghĩa như thế nào thì mỗi nước phải vận dụng sáng tạo mới thành công. Trong Cách mạng Tháng Mười 1917, Lê-nin lãnh đạo tiến hành bắt đầu từ các thành phố rồi tiến về nông thôn. Ở Trung Quốc thì xác định trường kỳ mai phục, lấy nông thôn bao vây thành phố tiến lên đánh chiếm thành phố giành chính quyền toàn quốc. Còn ở Hà Nội, khi tôi triệu tập Hội nghị Thành ủy mở rộng tối 17-8-1945 thì bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc chưa về đến nơi. Trước đó, ngày 15-8, Xứ ủy Bắc Kỳ đã lập Ủy ban Khởi nghĩa ở Hà Nội nhưng mới là để chuẩn bị và nghe ngóng thái độ quân Nhật chứ chưa quyết định ngày giờ và phương thức khởi nghĩa. Lúc đó, Nhật có khoảng 1 vạn quân tại Hà Nội cùng lực lượng ngụy quân tay sai khoảng 1.000 tên. Đảng bộ Hà Nội có khoảng 50 đảng viên, các đội tự vệ và thanh niên xung phong do Đảng lãnh đạo chỉ mấy trăm người. Chúng tôi tranh luận, thảo luận trắng đêm 17-8 để đi đến quyết định khởi nghĩa, với phương pháp táo bạo, giải quyết những vấn đề hóc búa mà chưa có tài liệu, nghị quyết nào của Đảng chỉ ra trước đó. Đối với quân Nhật, chúng tôi chủ trương không đánh, không tước vũ khí mà tìm mọi cách trung lập họ, cốt cho họ không can thiệp vào việc nội bộ của ta. Đối với bọn cảnh sát, ngụy quân người Việt vốn trước làm tay sai cho Pháp, nay làm tay sai cho Nhật, chúng tôi cũng xác định lấy sức mạnh quần chúng để thị uy, cảm hóa, đồng thời phải kiên quyết tước vũ khí của chúng. Đó là phương pháp đúng nhất, vì lực lượng vũ trang của chúng ta lúc đó rất ít, nếu đối đầu với quân Nhật sẽ thất bại, còn quân Nhật tuy xuống tinh thần khi biết tin Nhật hoàng đầu hàng, nhưng với súng ống hiện đại, quân đội chính quy, rất dễ gây khó khăn cho việc giành chính quyền của ta. Ta đã đánh trúng vào tinh thần của sĩ quan và binh lính Nhật bấy giờ là sống để về với vợ con. Lý lẽ của ta, vừa tiến công, vừa địch vận, nói rõ thiệt hơn, làm bọn Nhật đang hùng hổ tưởng ra oai làm ta khiếp sợ lùi bước, phút chốc đã trở nên chùn tay. Thực tế trưa 19-8, khi cách mạng đã chiếm được Trại Bảo an binh thì quân Nhật đưa xe tăng đến bao vây và đòi tước vũ khí của ta, đòi chiếm lại trại, anh em tự vệ và quần chúng rất căm tức đòi nổ súng, nhưng tôi quán triệt phương thức của Thành ủy đề ra, với phương châm vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, vừa đấu tranh, vừa thuyết phục kết hợp với áp lực mạnh mẽ của quần chúng và đấu tranh ngoại giao để giành thắng lợi trọn vẹn.

Phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội cho đến tận ngày nay vẫn là phương thức độc đáo, táo bạo, không theo một khuôn mẫu nào. Ngày 21-8-1945, anh Trường Chinh về đến Hà Nội, đã khẳng định cách giành chính quyền của Hà Nội là rất sáng tạo và chỉ thị gấp cho các nơi làm theo Hà Nội. Tháng 4-1963, khi giải đáp về Cách mạng Tháng Tám, anh Trường Chinh đã nói: "Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội còn có tầm quan trọng gợi mở một phương thức khởi nghĩa để giành chính quyền một cách không phải đổ máu. Từ đó, Trung ương đã đề ra phương pháp "một trong những hình thức đấu tranh chính trị chống Nhật là thương lượng với Nhật".

Tôi phải nói rằng, quyết định "thương lượng với Nhật" của Thành ủy Hà Nội khi Tổng khởi nghĩa là trên nền tảng quán triệt sâu sắc Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung ương ban hành từ tháng 3-1945. Năm 1953, trong cuộc chỉnh Đảng ở Liên khu 5, đã có ý kiến nói rằng Hà Nội khởi nghĩa mà không đánh Nhật là hữu khuynh và tôi phải kiểm điểm... Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy tự hào là khi đó, mới ngoài 20 tuổi mà tập thể Thành ủy và tôi đã có một quyết định thật táo bạo, thật tự tin.

Phóng viên (PV): Thưa Đại tướng, có lẽ chính vì Hà Nội và nhiều địa phương trên cả nước giành được chính quyền mà không đổ máu nên đến tận hôm nay, cứ vào dịp Tháng Tám, vẫn có những sử gia quốc tế viết bài cho rằng: Cách mạng Tháng Tám là sự "ăn may" của Đảng, của dân tộc ta?

Đại tướng Nguyễn Quyết: Đó là cách nhìn thiển cận, méo mó, hoặc có thể đó là sự hậm hực của những người thù địch với thành công của cách mạng Việt Nam. Là người trong cuộc, tôi phải nói rõ Cách mạng Tháng Tám thành công là sự sáng tạo, sự táo bạo trong đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, được chuẩn bị lâu dài và kỹ lưỡng. Chẳng hạn ở Hà Nội, từ năm 1930 đến 1943 là thời kỳ cam go, khốc liệt nhất, Thành ủy Hà Nội 18 lần được thành lập, xây dựng, kiện toàn nhưng rồi lại bị thực dân Pháp phá tan. Năm 1943, đồng chí Hoàng Văn Thụ về kiểm tra, chỉ đạo Hà Nội bị địch bắt, rồi xử tử hình. Lúc đó, dư luận Hà Nội xôn xao cho rằng không còn cách mạng nữa, Hà Nội không còn đảng viên nào trụ được trong vòng vây khủng bố của kẻ thù. Giữa năm 1943, Trung ương mà trực tiếp là đồng chí Hoàng Quốc Việt điều động tôi, đồng chí Lê Quang Đạo ở Bắc Ninh, đồng chí Vũ Quý ở Hải Phòng về tái lập Thành ủy Hà Nội. Giữa lúc tan nát nhất, Trung ương lại có quyết định táo bạo nhất, tiếp tục điều cán bộ. Khi đó, nhiều người nói chúng tôi đi vào cửa tử.  

Câu hỏi đặt ra lúc này là khôi phục cơ sở cách mạng từ đâu? Kinh nghiệm xây dựng, khôi phục tổ chức Đảng tại Hưng Yên của tôi là trước hết phải bám vào nông thôn, xây dựng căn cứ chắc chắn phải bắt đầu từ những người thân thiết, đáng tin cậy nhất. Ở Hà Nội, từ năm 1940 đến 1943, các tổ chức Đảng lần lượt bị địch phá tan tành vì xây dựng trong nội thành, nơi địch có bộ máy cai trị, đàn áp rất mạnh, Thành ủy lại thiếu căn cứ ở ngoại thành. Vì vậy, khi chúng tôi về gây dựng lại, Thành ủy Hà Nội quyết định xây dựng cơ sở vững chắc, an toàn từ vùng ngoại thành, từ đó làm bàn đạp tiến vào xây dựng, đẩy mạnh phong trào ở nội thành. Nhờ phương pháp đúng đắn đó mà cơ sở cách mạng dần được khôi phục, đến cuối năm 1944, toàn đảng bộ đã có 20 đảng viên, đến khi Tổng khởi nghĩa thì có 50 đảng viên. 

Nói một chút về tổ chức Đảng ở Hà Nội để thấy rằng, để có Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã có sự chuẩn bị rất kiên trì, kiên quyết. Từ sau thất bại của Việt Nam Quốc dân đảng năm 1930, trước "khủng bố trắng" của thực dân Pháp, không một đảng phái chính trị nào ở Việt Nam và kể cả đảng chính trị của người Việt ở nước ngoài tồn tại, trừ Đảng Cộng sản. Pháp dồn sức tiêu diệt Đảng ta nhưng chúng phá ở đâu thì Đảng ta lại lập lại hệ thống tổ chức ở đấy, không có địa phương nào vắng bóng đảng viên và tổ chức Việt Minh cứu quốc. Sự chuẩn bị lực lượng của Đảng ta là rất kỹ, để khi thời cơ đến thì chúng ta giành lấy chính quyền, "đem sức ta mà giải phóng cho ta", không trông chờ vào ai cả. Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám diễn ra thần tốc chỉ trong vòng một tuần, "nhất hô bá ứng", nhanh như sét đánh từ Nam chí Bắc, trên dải đất dài hàng nghìn ki-lô-mét, đó là một sự sáng tạo to lớn của Đảng ta, đó là thành quả của 15 năm chuẩn bị liên tục chứ không có chút "ăn may" nào cả.

Những chiến công kỳ diệu của Đảng và dân tộc ta sau này, như Điện Biên Phủ 1954; như giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 1975 hay thành tựu tốt đẹp của sự nghiệp Đổi mới cũng vậy, không hề có sự "ăn may" nào, tất cả đều trên nền tảng sáng tạo và chuẩn bị kỹ càng của Đảng, của nhân dân.

PV: Nhân dịp Đại tướng nói về sức mạnh sáng tạo của nhân dân, chúng tôi muốn tìm hiểu cách "điều tra dư luận xã hội" của Đảng ta thời điểm năm 1945? Thưa Đại tướng, làm thế nào để Thành ủy Hà Nội lúc đó, với khoảng 50 đảng viên, có thể "đo" được lòng nhân dân, nhất là lòng dân nội thành, để táo bạo đưa ra phương thức giành chính quyền mà không đổ máu trên nền tảng sức mạnh chính trị của quần chúng?

Đại tướng Nguyễn Quyết: (Cười). Đúng là khi đó, chúng tôi chẳng có cơ quan nào làm nhiệm vụ "điều tra dư luận xã hội" cả, nhưng lòng dân thì có thể đo được một cách chắc chắn. Chúng tôi đo bằng niềm tin sắt son vào lý tưởng độc lập của cả dân tộc.

Tôi muốn kể một câu chuyện nhỏ về anh Nguyễn Sỹ Tín, một học sinh có dòng dõi phong kiến nhưng đã được giác ngộ trở thành đoàn viên thanh niên xung phong Hà Nội. Bố anh ấy làm đến Phó tỉnh trưởng Bắc Ninh thời Nhật cai trị, mẹ là con quan lớn có biệt thự ở phố Hàng Đào. Ông bố bận bịu suốt ngày phục vụ các ông chủ Pháp, Nhật thì cả mẹ và anh chị em trong nhà anh đều tham gia hoặc ủng hộ Việt Minh. Chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, đoàn viên tuyên truyền xung phong của Hà Nội đã huấn luyện quân sự ngay tại dinh thự của bố anh ấy tại Bắc Ninh, mẹ anh ấy chăm sóc từng bữa ăn, giấc ngủ cho cả đơn vị. Trường hợp của Nguyễn Sỹ Tín nói lên rằng, trong bối cảnh dân tộc đang đứng trước ngưỡng cửa đổi đời, chính sách đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc của Đảng, Bác Hồ đã cảm hóa và động viên tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, kể cả những người tầng lớp trên mà quyền lợi của họ gắn với quyền lợi của kẻ thù.

Chúng tôi đo lòng dân bằng niềm tin không gì lay chuyển nổi là như thế. Bây giờ, chúng ta nói đến niềm tin rất nhiều, số cơ quan làm việc điều tra dư luận xã hội cũng rất nhiều, nhưng quan trọng là phải có niềm tin. Muốn dân tin Đảng, trước hết Đảng phải tự tin vào Đảng, chúng ta tin rằng, một Đảng cách mạng như Đảng Cộng sản Việt Nam, với nền tảng tư tưởng là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, với bản lĩnh được tôi luyện qua hơn 8 thập kỷ, với vũ khí sắc bén tự phê bình và phê bình, nhất định sẽ tự chỉnh đốn, tự đổi mới thành công.

PV: Thưa Đại tướng, nói về xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, nhiều người nói "tự phê bình và phê bình" sẽ khó giải quyết được các vấn đề nội tại của Đảng, giống như "dao sắc không gọt được chuôi". Đại tướng có suy nghĩ gì về vấn đề này?

Đại tướng Nguyễn Quyết: Như vậy, bản chất của vấn đề vẫn là niềm tin. Lịch sử Đảng ta đã chứng tỏ Đảng ta rất vĩ đại, làm những điều thần kỳ, ít người tin là có thể làm được. Cách mạng Tháng Tám thành công đến khó tin, ngay cả kẻ thù cũng không hình dung nổi nhân dân ta có thể nổi lên làm chủ tình hình mau lẹ đến thế. Thắng Pháp, thắng Mỹ trong chiến tranh vệ quốc được coi là "huyền thoại". Đổi mới thành công cũng ngoạn mục như huyền thoại. Rõ ràng, niềm tin rất quan trọng, phải có niềm tin, nhưng không mù quáng, phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Tôi nói cách mạng phải sáng tạo, sáng tạo phải táo bạo nhưng phải dựa trên một điều bất biến đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

Tại sao có người, thậm chí nhiều người không còn tin vào vũ khí "tự phê bình và phê bình", vì chúng ta làm điều đó chưa tốt, dù chúng ta làm khá nhiều nhưng chưa thực chất. Cốt lõi của vấn đề là phải làm điều này cho thật tốt, như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra.

Tôi thấy Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) có nhiều biện pháp rất hay, rất sáng tạo và táo bạo, như việc thẳng thắn chỉ ra hiện tượng suy thoái, biến chất ngay trong đội ngũ cán bộ chiến lược; rồi chỉ rõ cả vấn đề kiểm soát lối sống vợ con của các đồng chí cán bộ cấp cao.

Phải nhìn thẳng vào nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Có một nguyên nhân rất cốt tử là một số lãnh đạo cấp cao của đảng phản bội lý tưởng XHCN, sự phản bội ấy bắt đầu từ lối sống, sống thực dụng, ích kỷ, hám danh dẫn đến ngày càng xa hoa, hưởng lạc, xa dân; sống như thế tất yếu sẽ tham nhũng, bè phái, khi tham nhũng và bè phái thì dù trong lòng còn chút hồi tâm, muốn trở lại sống đẹp, sống có lý tưởng cũng khó, thế là thành kẻ phản bội chính mình, phản bội Đảng và dân tộc.

Cái hay của "tự phê bình và phê bình" là làm cho cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ chiến lược nói riêng sớm nhìn ra khuyết điểm và có khuyết điểm, có suy thoái nhưng vẫn có thể sửa chữa kịp. Cho nên, tôi có niềm tin rất lớn vào sự nghiệp "tự chỉnh đốn" của Đảng ta.

Vấn đề là "tự phê bình và phê bình" bây giờ phải rất sáng tạo, "chủ trương một thì biện pháp phải mười", không thể cứ tổ chức hội nghị và góp ý cho nhau như trước nữa, phải táo bạo, mạnh dạn tìm ra những phương thức "tự phê bình và phê bình" mới cho phù hợp với thực tiễn. Làm được như vậy thì tất yếu sẽ thành công!

...

 (Đồng hồ đã chỉ 11 giờ 30 phút, Đại tướng Nguyễn Quyết vẫn đang nói rất say sưa nhưng đồng chí thư ký mấy lần ra hiệu cho chúng tôi ra về vì sợ ảnh hưởng đến sức khỏe của Đại tướng. Trưa Tháng Tám, trời Hà Nội trong và ấm áp, nắng nhẹ nhàng buông qua những tán lá xanh. Chia tay Đại tướng Nguyễn Quyết, chúng tôi lưu nhớ mãi trong tâm lời dặn dò của ông: "Làm cách mạng phải sáng tạo, sáng tạo phải táo bạo").

Đại tướng Nguyễn Quyết tên thật là Nguyễn Tiến Văn, sinh ngày 20-8-1922, tại xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, quân đội, như: Bí thư Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 3... Khi diễn ra Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, đồng chí là Bí thư Thành ủy Hà Nội.

NGUYỄN HỒNG - VĂN TUẤN (thực hiện)