QĐND - Nhân dịp kỷ niệm 27 năm Ngày thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam (6-12-1989 / 6-12-2016), Thượng tướng Nguyễn Văn Được, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, đã dành cho phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần cuộc trò chuyện thân mật, cởi mở…
 |
Thượng tướng Nguyễn Văn Được. Ảnh: TUẤN HẢI
|
Thượng tướng Nguyễn Văn Được tâm sự: "Quê tôi ở xã Hành Tín Tây, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Bố tôi mất từ khi tôi mới lọt lòng. Hai ông anh và một bà chị của tôi cũng mất sớm. Người ta kể lại, năm tôi lên 2 thì mẹ tôi mất. Lúc đó, tôi còn quá nhỏ nên vẫn bò lên chỗ mẹ nằm, vạch vú mẹ ra bú. Chị Ba (chị gái thứ hai-PV) thấy vậy, ôm tôi khóc nức nở. Chị Ba nuôi đến khi 10 tuổi thì tôi bắt đầu đi ở cho các nhà trong làng để kiếm miếng cơm, manh áo. Phận “đứa ở”, các bạn chắc hiểu, tủi nhục lắm. Năm 1959, tên chủ nhà vốn là cảnh sát ngụy bắt tôi tiếp tục phục vụ cho nhà nó, nhưng tôi không chịu, nó cầm cái bát đập rách đầu tôi, đến nay vẫn còn vết sẹo. Suốt tuổi thơ, tôi không bao giờ có tấm áo lành. Tối ngủ đắp chiếc chiếu rách. Nhìn những đứa trẻ con nhà chủ có bố mẹ đầy đủ, được chăm sóc, ăn sướng mặc sang, tôi thèm lắm. Tôi thèm đi học nhưng không có điều kiện để học. Tôi đi ở thấy chủ nhà xách đèn đi học tôi cũng đi theo. Học lỏm nên cũng biết được mặt chữ đủ để biết đọc, biết viết. Những năm 1959-1961, Mỹ-ngụy lê máy chém đi khắp miền Nam. Tôi lúc đó 15-16 tuổi, bỏ nhà tên cảnh sát ngụy đi ở cho một gia đình có con trai tập kết ra Bắc theo cách mạng. Thế là tên ngụy tìm gặp tôi, nó hỏi “Sao mày không đi ở cho tao mà đi ở cho gia đình có cộng sản?”. Nó đánh tôi hộc máu mồm, máu mũi. Tôi đẩy nó ra và bỏ chạy lên rừng, từ đó tôi tìm đường theo cách mạng. Năm đó tôi 16 tuổi. Các bạn biết đấy, lúc đó tôi chưa có hiểu biết gì nhiều, chỉ biết theo cách mạng là được sống, được chiến đấu chống lại lũ ác ôn. Sau này tôi nghĩ, càng trong cực khổ, càng giúp người ta nhận ra lẽ sống đẹp".
Phóng viên (PV): Thưa Thượng tướng,16 tuổi đã nhập ngũ, rồi tham gia chiến đấu liên tục trên nhiều chiến trường, đồng chí dành thời gian tự học như thế nào?
Thượng tướng Nguyễn Văn Được: Từ năm 16 tuổi vào rừng, theo cách mạng, tôi bắt đầu được các chú, các anh dạy văn hóa, dạy tăng gia, sản xuất để tự túc lương thực. Cứ thế, cho đến lúc nghỉ hưu, hơn 50 năm tuổi quân cũng là quãng thời gian tôi tự học. Quân đội là trường “đại học tổng hợp” mà, ở đó cấp trên là thầy, đồng đội cũng là thầy, bảo ban, chỉ dẫn lẫn nhau. Thực tiễn chiến đấu cũng là một ông thầy. Tôi chiến đấu trên khắp các chiến trường ở miền Trung-Tây Nguyên, Chiến dịch Quảng Trị, chiến đấu trên chiến trường nước bạn Lào rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hết kháng chiến chống Mỹ thì gần như bước ngay vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới. Tôi tham gia chiến đấu liên tục từ khi là một chiến sĩ đến cương vị Sư đoàn trưởng.
Vào khoảng giữa thập niên 1980, đang là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 356, tôi được điều về làm Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi. Lại là một lần phải mày mò, nỗ lực tự học để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Lúc đó, Tỉnh ủy giới thiệu tôi ra bầu làm Bí thư Tỉnh ủy nhưng tôi cương quyết từ chối. Tôi nghĩ kiến thức, kinh nghiệm của mình phù hợp với công tác quân sự hơn. Tỉnh ủy Quảng Ngãi vẫn bầu tôi làm Phó bí thư Thường trực Tỉnh ủy, kiêm Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh. Ý các đồng chí là vẫn muốn tôi chuyển hẳn ra công tác ở Tỉnh ủy. Sau đó, tôi được cấp trên điều về làm Phó tư lệnh Quân khu 5, Tư lệnh Quân khu 5, rồi làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ra công tác ở Bộ, đồng chí Bộ trưởng giao tôi phụ trách hơn 50 đầu việc, nhiều nhiệm vụ mới mẻ với tôi nhưng nhờ tập thể giúp đỡ, bản thân nỗ lực tự học, tôi đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tôi tham gia 3 khóa Trung ương, 2 khóa Quốc hội, cương vị nào, nhiệm vụ nào cũng thấy cần phải tự học, tự nâng cao hiểu biết thì mới đáp ứng được. Như năm 2011, khi vừa nghỉ hưu thì Bộ Chính trị giới thiệu tôi ra công tác và được bầu làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Lại là một nhiệm vụ mới và dù tuổi cao rồi, tôi vẫn phải nỗ lực học tập…
Khi nãy, có bạn tỏ ra lo lắng khi so sánh việc học tập và lẽ sống của thanh niên thời trước với thời nay. Tôi nghĩ thế này, thanh niên thế hệ chúng tôi, cả miền Bắc và miền Nam, sinh ra trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, bị chiến tranh, nên lẽ sống của chúng tôi là không ngại hy sinh, gian khổ, chiến đấu quên mình vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Thời đó, thanh niên miền Bắc rất nhiều người lấy máu viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Thời nay thì khác, thanh niên có điều kiện học hành cẩn thận, họ có trình độ khoa học-kỹ thuật cao, họ có nhu cầu hưởng thụ cuộc sống. Vì thế mà có những thanh niên thiếu quan tâm, thậm chí lãng quên truyền thống cách mạng tốt đẹp của dân tộc. Nhưng tôi tin đó chỉ là số ít, số đông thanh niên vẫn sẵn sàng, tình nguyện hy sinh khi Tổ quốc cần.
PV: Là người đã trải qua chiến tranh, tham gia nhiều chiến dịch lớn, hẳn là có nhiều trận đánh để lại kỷ niệm sâu sắc với Thượng tướng? Theo đồng chí, để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, chúng ta phải để ý những vấn đề gì?
Thượng tướng Nguyễn Văn Được: Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trận đánh cao điểm Phú Phận, cao trên 1000m, án ngữ lối vào Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng ở nước bạn Lào là trận đánh tôi nhớ nhất. Lúc đó, tôi là đại đội trưởng, đại đội nằm trong đội hình tiểu đoàn làm nhiệm vụ bí mật thọc sâu vào trận địa địch. Một tiểu đoàn thiếu của quân ngụy Lào đổ xuống điểm cao Phú Phận chia cắt sở chỉ huy tiểu đoàn với lực lượng thọc sâu. Chỉ huy Trung đoàn lo lắng “không nhổ được cứ điểm đó, không những sở chỉ huy mà lực lượng thọc sâu của ta rơi vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Lúc đó tôi xung phong xin đi đánh. Trung đoàn trưởng thấy lực lượng trong tay tôi chỉ có 15 tay súng, gồm những cán bộ không đi theo đội hình chiến đấu và chiến sĩ nuôi quân thì rất lo lắng. Nhưng tình thế khẩn trương, cấp trên đồng ý cho tôi đi đánh. Tôi tổ chức lực lượng lại thành 3 mũi, hỏa lực chỉ có 2 khẩu trung liên, hai khẩu B40, B41. Tôi vừa mang súng ngắn, vừa mang AK báng gập, lựu đạn dắt quanh người. Ngay trong đêm, tôi chỉ huy bộ đội bò lên trận địa địch nhưng ém tại đó mà không cho đánh ngay. Đến tờ mờ sáng, khi địch vừa báo thức, mắt nhắm, mắt mở, quần áo chưa kịp mặc, tôi phát lệnh nổ súng. Lựu đạn vứt vào công sự, B40 bắn vào điểm chốt, AK, trung liên nổ súng. Trong tích tắc chúng tôi đã làm chủ hoàn toàn trận địa. Lực lượng địch phần bị tiêu diệt, còn lại bỏ chạy. Tôi ra lệnh dùng cối 81mm thu được của địch, bắn theo hướng chạy của địch. Lúc 6 giờ sáng, máy bay L39 của địch bay quần lượn quan sát. Tôi lệnh cho anh em thay quần áo của quân ngụy Lào, đeo súng AR 15 đi lại quanh điểm cao, thấy máy bay địch thì vẫy chào... Sau một hồi quần lượn, tốp L39 bay đi. Tôi điện về báo cáo trung đoàn đã chiếm gọn cao điểm. Trung đoàn trưởng không tin, hỏi: “Vừa thấy máy bay L39 lượn trên đầu, nếu các cậu chiếm được cao điểm thì nó đã gọi T28 (trực thăng ném bom của địch-PV) đến nện cho một trận bom rồi”. Tôi báo: “Quân số có 15 người, trong đó 4 người bị thương, đề nghị cấp trên tăng cường lực lượng lên giữ cao điểm”.
Chỉ 15 người nhưng tôi vẫn hạ quyết tâm tiến công tiểu đoàn thiếu của địch là vì tình thế lúc ấy không thể chần chừ được nữa. Bên cạnh đó, tôi có niềm tin mãnh liệt vào bộ đội, vào cách đánh và việc lợi dụng địa hình. Trong lúc khó khăn, hoạn nạn, sức mạnh tinh thần vượt xa gấp trăm nghìn lần sức mạnh vật chất.
Nói thế để chúng ta có niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhưng để Tổ quốc không bị bất ngờ, Đảng, Nhà nước, quân đội phải chuẩn bị kỹ về thế trận. Đầu tiên là thế trận tư tưởng. Thế trận lòng dân ở từng khu vực và trên cả nước, thế trận phòng thủ, đường cơ động, căn cứ hậu cần... để khi địch đến, ta có chuẩn bị sẵn. Trước đây, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân rất tuyệt vời, có sức mạnh vô song. Thế nên chúng ta mới chiến thắng những đội quân xâm lược nhà nghề, được trang bị đến tận răng. Hiện nay, theo chủ trương của Đảng, chúng ta phải chủ động bảo vệ Tổ quốc từ xa, “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”. Muốn vậy, thì về mặt đối ngoại, ta phải chủ động hội nhập quốc tế, quan hệ tốt đẹp với các nước, đặc biệt là các nước láng giềng, tranh thủ mọi nguồn lực mà quan hệ quốc tế mang lại để xây dựng đất nước. Về đối nội, phải chăm lo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng quân đội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phải đẩy lùi được tham nhũng, chống có hiệu quả “lợi ích nhóm”… Thứ ba, cùng với tích cực và chủ động hội nhập thì ta phải nâng cao cảnh giác, nhất là chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, để bảo đảm cho Tổ quốc không bị bất ngờ.
PV: Thưa Thượng tướng, hai cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc trước đây đã xuất hiện rất nhiều vị tướng lĩnh tài năng và đức độ của thời đại Hồ Chí Minh. Các vị tướng đó luôn là niềm tự hào của đông đảo cựu chiến binh Việt Nam. Đồng chí có cảm nghĩ thế nào về thế hệ tướng lĩnh đàn anh?
Thượng tướng Nguyễn Văn Được: Cái vĩ đại của thời đại Hồ Chí Minh là “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi, dù là tướng, tá hay úy, sĩ, là Bộ đội Cụ Hồ thì ở cấp nào tôi cũng quý mến, trân trọng.
Cựu chiến binh Việt Nam có niềm tự hào rất lớn về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đồng thời được suy tôn là Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Với mỗi hội viên Hội Cựu chiến binh, tấm gương “dĩ công vi thượng” của Đại tướng là tấm gương đạo đức suốt đời chúng tôi học tập, noi theo. Khi Đại tướng còn sống, tôi cũng nhiều lần được gặp và những điều tôi tự học được ở Đại tướng là lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, là tấm lòng hết mực yêu thương cấp dưới, kính trọng nhân dân. Đại tướng đã đi xa theo Bác Hồ, trong trụ sở mới xây dựng của Trung ương Hội trên phố Lý Nam Đế, chúng tôi đã lập bàn thờ Bác Hồ ở giữa, một bên thờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một bên thờ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
Thế hệ tướng lĩnh trong hai cuộc kháng chiến luôn là những người để chúng tôi học hỏi, noi gương. Những vị tướng trong chiến tranh như: Nguyễn Hữu An, Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Trần Văn Trà... không chỉ là tài năng quân sự mà còn là những nhân cách lớn của thời đại. Họ dành cả đời, tận tụy hy sinh cho Tổ quốc mà không một ngày nghĩ đến hưởng thụ. Hay như Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, một vị tướng trưởng thành trong chiến trường, về thời bình luôn giữ nguyên ý chí chiến đấu chống tiêu cực, dám nói thẳng, nói thật. Đấu tranh quyết liệt nhưng đúng lúc, đúng chỗ, chứ không phải là để thể hiện cá nhân. Tôi còn được biết, về hưu, đồng chí Nguyễn Quốc Thước chăm vợ ốm nặng, liên tục mười mấy năm không kêu ca, phàn nàn. Đồng chí Nguyễn Quốc Thước là tấm gương cựu chiến binh tiêu biểu.
PV: Là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, hiện nay đồng chí quan tâm nhất điều gì?
Thượng tướng Nguyễn Văn Được: Hiện nay, cả nước có 3 triệu cựu chiến binh, 17 nghìn tổ chức cơ sở hội, ngoài nhiệm vụ Đảng, Nhà nước, địa phương giao cho phải tham gia xây dựng quân đội, xây dựng khu vực phòng thủ, tuyển quân, đóng góp ý kiến xây dựng quân đội... Điều quan tâm lớn nhất của tôi hiện nay là công tác giáo dục cựu chiến binh cả nước có quan điểm rõ ràng, tư tưởng dứt khoát. Phải nêu gương, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Tổ chức hội phải trong sạch, gương mẫu. Phải có tư tưởng tốt mới bảo vệ được Tổ quốc. Tư tưởng không thông thì bảo vệ mình không nổi.
Cựu chiến binh khi về với đời thường không cam tâm chịu đói nghèo mà phải tích cực tham gia làm kinh tế, sản xuất kinh doanh. Hiện nay, cựu chiến binh có gần 7 nghìn doanh nghiệp lớn, nhỏ, trong đó có nhiều doanh nghiệp rất lớn, đầu tư sang cả nước ngoài. Tôi nói với anh em: "Làm gì thì làm, không được làm sai luật. Từ khi tôi làm Chủ tịch Hội đến nay, đáng mừng là chưa có cựu chiến binh nào kinh doanh vi phạm pháp luật lớn.
Là người đã trải qua nhiều thời kỳ gian khó của đất nước, tôi thấy chưa bao giờ đất nước có điều kiện tốt đẹp để phát triển như hiện nay. Tuy tiêu cực, tham nhũng còn phức tạp, cuộc "chiến đấu" của chúng ta còn lâu dài và gian khổ, nhưng những cựu chiến binh như chúng tôi tin rằng, nhất định đất nước chúng ta sẽ phát triển mạnh mẽ, mục tiêu và lý tưởng của Đảng sẽ trở thành hiện thực.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
HỒNG HẢI - VĂN TUẤN (thực hiện)