QĐND - Có lần, anh ra sân bay đi công tác. Dù đã bỏ hết các vật dụng kim loại ra khỏi người, máy báo động vẫn phát tín hiệu inh ỏi khiến nhân viên sân bay kinh ngạc nhìn anh. Phải đến khi người trợ lý nói với cô nhân viên trẻ: “Chú ấy là thiếu tướng, trong người còn 83 mảnh đạn”, cô nhân viên tròn mắt, vội vàng xin lỗi...
Vị tướng ấy, giờ đây có cuộc trò chuyện cùng chúng tôi, đúng vào buổi sáng 29-4-2011, ngày mà 36 năm trước, anh đã lái chiếc xe tăng 817 cùng đồng đội thần tốc lao vào trung tâm TP Sài Gòn...
 |
Thiếu tướng Hoàng Trung Kiên xúc động khi nói về một nửa đại đội xe tăng của anh hy sinh trưa 30-4-1975 ở ngã tư Bảy Hiền.Ảnh: NM |
Ngôi sao ứa lệ ngày ấy
PV: 36 năm trước, anh cùng đại đội xe tăng của mình đang trên đường thần tốc. Ngày 29-4 năm ấy còn in sâu trong ký ức của anh chứ?
Thiếu tướng Hoàng Trung Kiên: Những ngày ấy tưởng như vừa mới hôm qua thôi. “Thần tốc” đến mức ở nhiều đơn vị, anh em dùng sơn và dùng cả… kem đánh răng để kẻ cho được khẩu hiệu “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng” lên thành xe tăng. Tôi đang ở Đại đội 9 do anh Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy thì bất ngờ nhận lệnh chuyển sang Đại đội 1, thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn H73, đảm nhiệm mũi thọc sâu, thực hiện chủ trương cực kỳ táo bạo: “Dùng xe tăng địch đánh địch”. Lúc này, H73 đảm nhiệm mũi tiến công quan trọng: Đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu ngụy. Đêm 28-4, chúng tôi tập kết ở Củ Chi. Sáng 29-4, tôi bất ngờ được cử lái chiếc xe đầu tiên xuất kích hướng Tây Bắc, dẫn đầu đại đội gồm 8 xe. Thật vui sướng vì phải tin tưởng lắm cấp trên mới giao cho mình nhiệm vụ ấy. Đặc trưng của chiến đấu xe tăng trong thành phố là vai trò của xe đi đầu, đi cuối rất nặng nề, cũng là hai vị trí nguy hiểm nhất nên thường phải chọn kíp xe giỏi nhất, gan dạ nhất.
- “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi anh lần đầu ngồi lên thiết mã ra chiến trường đã diễn ra như thế nào?
- Tôi học lái xe tăng ở thao trường núi Đanh, lúc vào chiến trường, theo thông lệ, những “lính mới” tò te như tôi đâu đã được lái xe, phải có thầy trợ giáo đi kèm. Vì thế, hôm đi lấy xe, tôi ung dung ngồi chờ thầy trợ giáo. Đến lúc nghe chính trị viên lệnh: “Kiên, vào lái cái xe này” thì tôi mới giật mình, bước vào mở tấm vải bạt ra. Trời ơi! Một chiếc xe T54-B mới coong, cũng là loại xe hiện đại nhất lúc bấy giờ. Chính trị viên nhìn tôi cười: “Nó là chiếc xe “ngon” nhất trong loạt xe này, giờ là của chú em đấy!”. Lúc học, chúng tôi chỉ được lái xe tăng T34 cũ. Giờ ngồi vào cái xe này, nó mới quá, hoành tráng quá, lại còn “một mình một ngựa” nữa. Tôi sướng quá nhưng cũng rất lo, bèn bảo một thầy giáo: “Anh Ninh ơi! Anh vào xe hướng dẫn thì em mới lái được, xe này mới quá, lại nhiều đồng hồ, đèn tín hiệu nữa!”. Thầy nhảy vào, chỉ trỏ vài phút. Còn lại mình tôi, sướng và lo đến mức run cầm cập, lúng túng nổ máy, cài số lao đi.
- Trở lại với cuộc chiến đấu của ngày 29 và 30-4-1975, các anh đã “ăn mừng” chiến thắng ra sao?
- Ngày toàn thắng ấy là niềm vui vỡ òa của cả dân tộc. Nhưng riêng tôi không được chứng kiến điều ấy, đại đội tôi càng không được “ăn mừng”. Địch chống cự quyết liệt. Khi xe tôi qua Cầu Bông thì đã nhìn thấy địch bắn cháy mấy xe của ta nằm dưới ruộng. Trưa 29-4, chúng tôi tới thị trấn Hóc Môn, tôi dừng xe để bổ sung đạn mới biết trên xe lúc này không còn gì cả, từ thùng dầu phụ tới súng 12,7mm đều bị địch bắn bay hết. Chập tối 29-4 thì chúng tôi tới gần ngã tư Bảy Hiền, được lệnh dừng lại củng cố lực lượng. Sáng hôm sau, mờ sáng, đại đội lại lên đường và tôi vẫn lái chiếc xe dẫn đầu, lao tới mục tiêu trước mắt là đánh chiếm ngã tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả. Đến gần ngã tư, đạn địch xối xả. Chúng đốt một chiếc cháy ngùn ngụt cản đường. Quán triệt phương châm: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa”, tôi quan sát nhanh, nhìn thấy hai bức tường ven đường, bẻ lái cho xe lao tới, mở đường cho đại đội vượt qua. Đi tiếp được một đoạn thì bỗng “rầm”, tôi tối tăm mặt mũi, ngất đi. Xe của tôi đã trúng đạn ĐKZ của địch.
Phải đến ba ngày sau, tôi tỉnh lại thì mới biết mình đang nằm trong bệnh xá tiền phương ở thị trấn Hóc Môn.
- Những ngày tiếp đó hẳn rất vui sướng vì anh được gặp lại đồng đội?
- Không! Suốt mấy ngày liền không ai đến thăm tôi cả. Tôi buồn lắm. Lo lắng, bồn chồn không hiểu điều gì xảy ra. Mãi đến gần một tuần sau, mới có duy nhất một người cùng đơn vị là anh Bùi Văn Ngọ đến thăm tôi. Nhìn thấy anh, tôi mừng quá, vội vàng hỏi ngay: “Anh Ngọ ơi, sao giờ anh mới tới? Sao không ai vào thăm em hả anh?”. Thấy anh im lặng, quay mặt đi, tôi giật tay thì anh mới nghẹn ngào nói: “Anh em hy sinh hết rồi em ơi! Còn ai nữa đâu mà thăm…”. Cả đại đội tôi có 8 xe thì 5 xe bị bắn cháy trong buổi sáng 30-4 ấy. Đại đội trưởng, chính trị viên, trung đội trưởng, những người cốt cán nhất của đơn vị đều hy sinh! Chiếc xe tôi lái, khi tôi bị thương, được anh em khiêng ra, chiến sĩ khác vào thay, xe chạy tiếp được vài chục mét thì tiếp tục trúng đạn địch. Cả xe hy sinh không còn một ai. Tôi là người duy nhất còn sống sót trong 5 anh em thuộc kíp xe 817. Ác liệt thế, mất mát thế mà cách đây mấy năm, có kẻ lại còn đưa ra luận điểm có thể giải phóng Sài Gòn mà không cần nổ súng. Thật là hồ đồ, xúc phạm những người nằm xuống. Ai đó muốn nói, muốn tin như thế, hãy tới gặp tôi, hãy nghe câu chuyện đại đội tôi đây…
Thiếu tướng Hoàng Trung Kiên nghẹn lời, ôm mặt khóc nức nở. Nhìn những giọt nước mắt lăn dài xen lẫn tiếng thổn thức không thể kìm được trên gương mặt vị tướng một thời trận mạc, chúng tôi cũng thấy lòng mình tê tái. Cuộc trò chuyện bị ngắt quãng. Chúng tôi tự trách mình sao đường đột dùng từ “ăn mừng” 30-4 khi phỏng vấn anh…
Khi ra viện với giấy chứng thương 83 mảnh đạn nằm rải rác trong người. Những ngày đầu trở về đơn vị, anh rơi vào tình trạng trầm cảm nặng nề bởi nỗi đau mất mát quá lớn, quá nửa đại đội hy sinh. Đến nỗi, khi bình xét công trạng, chính trị viên, đại đội trưởng, trung đội trưởng đều không còn, anh em cũng chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến thành tích của mình nữa. Anh đau đớn, lẳng lặng đi, đi tìm cho được chiếc xe thân yêu, sờ nắn kỹ hai vết đạn và nhanh chóng nhận ra: Vết đạn lần đầu là đạn ĐKZ 75 đã làm anh bị thương, còn vết đạn thứ hai là loại đạn ĐKZ 175, đã phá hủy xe và làm toàn bộ 4 đồng đội anh hy sinh. Năm nào cũng vậy, ngày 30-4, anh thường thắp hương và ngồi lặng lẽ nhớ về anh em trong đại đội đã hy sinh, nhớ về những ngôi sao màu lửa trên tháp pháo đẫm sương đêm như nước mắt nhớ những chủ nhân đã ngã xuống. Bài thơ “Đại đội tôi” anh viết, có đoạn: “Theo chiến dịch liên miên, đến khi kết thúc/Nhìn lại phía sau vắng một nửa “ngôi nhà”/Vui giải phóng, nhưng đâu còn đồng đội/Ngôi sao buồn trên tháp pháo đẫm lệ sương…”.
Để người lính hôm nay bớt đổ máu
PV: Cũng vào dịp kỷ niệm 30-4 năm ngoái, anh được giao trọng trách mới: Tư lệnh Binh chủng Tăng-Thiết giáp. Anh đã tập trung cho công việc gì nhiều nhất?
Thiếu tướng Hoàng Trung Kiên: Khi được cấp trên tin tưởng bổ nhiệm cương vị Tư lệnh Binh chủng, tôi đã suy nghĩ rất nhiều đến 6 chữ vàng truyền thống: “Đã ra quân là đánh thắng”. Chỉ 6 chữ thôi, nhưng để phát huy được điều đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề. Vì vậy, yêu cầu đặt lên hàng đầu lúc này vẫn là phải làm sao nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của Binh chủng!
- Để thực hiện được điều này thì đâu là những điểm nhấn, thưa anh?
- Trong tổ chức, xây dựng lực lượng và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu hiện nay phải linh hoạt, đổi mới, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa và điều kiện tác chiến mới. Việc xác lập mô hình chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu là một ví dụ. Theo sách vở và theo mô hình của nước ngoài thì khi có báo động, quy định 3 phút, 5 phút… người lính xe tăng phải gói ghém tư trang, nổ máy lên đường, theo tôi cũng cần nhưng chưa… hay! Nếu có chiến tranh xảy ra, chúng ta phải có chỉ đạo chiến lược, có dự báo, chúng ta sẽ cơ động xe tăng vào vị trí tác chiến một cách chủ động, đàng hoàng thì mới có thể chiến thắng chứ không thể chờ địch đến rồi mới cuống cuồng lên đường. Ví dụ, khi địch nổ súng ở Đà Nẵng thì trước đó xe tăng của tôi đã cơ động đến vị trí cần tác chiến từ khi chúng còn ngoài xa. Xe tăng của chúng tôi sẽ rời doanh trại một cách bình tĩnh, chủ động chứ không bị động. Cao hơn nữa là cùng với cơ động, ta phải “cài thế chiến lược”. Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta cũng từng có rất nhiều sáng tạo. Ví dụ như trong trận Làng Vây nổi tiếng, việc ta cho xe tăng bơi dọc sông Sê Pôn cơ động lên tham gia tiến công là táo bạo, chưa từng có trong lý luận. Việc đưa xe tăng vào chiếm lĩnh khu vực tập kết chiến đấu rất gần địch (khoảng 6km theo đường chim bay) nếu so với lý luận cho phép cách địch 30km. Nhưng chúng ta đã táo bạo và chúng ta đã chiến thắng.
Nếu được chọn hướng tiến công ở ngã tư Bảy Hiền bây giờ, có thể tôi sẽ tìm đường tiến công khác phù hợp hơn. Tất nhiên không thể so sánh vì bấy giờ điều kiện tác chiến khẩn trương, ta chưa có điều kiện trinh sát kỹ địch, địa hình. Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định rằng, những kinh nghiệm chiến đấu thời chống Mỹ vô cùng quý. Thời còn làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Tăng – Thiết giáp, tôi đã yêu cầu phải đưa cho được thật nhiều chiến lệ vào các bài học. Tôi cũng từng rà soát hàng ngàn trang giáo án, loại bớt những nội dung nặng về lý thuyết, bổ sung cái “chiến trường cần”. Có môn học như điều lệnh từng không cần phải thi, song tôi kiên quyết yêu cầu phải thi và lấy điểm. Điều lệnh là nền tảng của kỷ luật, nhiều trường hợp đổ máu, hy sinh chỉ vì kỷ luật kém! Hồi làm luận án tiến sĩ ở Học viện Quốc phòng, từ kinh nghiệm chiến trường, tôi chọn đề tài giảm bớt thương vong cho bộ đội xe tăng trong chiến dịch tiến công.
- Nói đến kỷ luật, hình như anh nổi tiếng là người chỉ huy duy trì kỷ luật cứng rắn?
- Để chấn chỉnh một đơn vị yếu kém, không có cách nào khác là phải duy trì kỷ luật nghiêm. Để người chỉ huy ra quyết định đúng, đòi hỏi phải được nghe thông tin chính xác. Vì vậy, trên cương vị chỉ huy, tôi rất chú trọng việc nắm các kênh thông tin khác nhau. Có lúc, một việc tưởng đơn giản như “Hòm thư góp ý”, khi tôi thường xuyên mở hòm thư đã khích lệ anh em nói thẳng, nói thật nhiều điều. Trong các cuộc họp, tôi yêu cầu bỏ bớt phần phân tích điểm mạnh, tập trung nhiều hơn cho việc nói về các điểm yếu. Hồi về làm Tư lệnh, cũng có những dư luận nói anh nọ, anh kia cán bộ cấp dưới “có vấn đề” nhưng khi điều tra, lắng nghe kỹ càng ý kiến từ cấp ủy, từ anh em thì không phải nên tôi không thay ai cả mà công việc vẫn tốt. Tôi cũng cho rằng, chỉ tăng cường kỷ luật một chiều thì chưa đủ, phải lo cho đời sống của anh em, tạo bầu không khí thoải mái, bênh vực cái đúng, phê phán cái sai. Nếu không cần thiết, tôi không bao giờ tổ chức họp hành vào thứ bảy, chủ nhật. Anh em ai ở xa hơn 40km có thể cho họ đi tranh thủ sớm, kẻo về muộn lập cập dễ tai nạn. Có lúc tôi từng tự tay thiết kế bể bơi, nhà ở, lo nước sạch cho anh em. Có người bảo kinh phí đâu mà nghĩ ra nhiều việc nhưng tôi nghĩ tiền là ở… đầu mình. Nếu cái đầu luôn lo lắng vì tập thể, vì anh em thì mình và anh em sẽ tìm ra cách thực hiện thôi!
PV: Xin cảm ơn anh!
Nguyên Minh – Đức Toàn (thực hiện)