“Tôi thuộc loại quý hiếm...”

Phóng viên (PV): Thưa anh, kiến thức văn hóa, dân tộc và nền nếp gia đình cũng như dòng máu văn chương từ ông nội và bố anh, đã ảnh hưởng đến anh như thế nào?

Nhà văn Mã Anh Lâm: Ông nội tôi là người trầm tính, ít nói, nhưng tôi nhận thấy trong ông là cả một tình yêu thương vô bờ đối với gia đình và trách nhiệm với quê hương, đất nước. Ông tham gia chống Pháp, tiễu phỉ, góp phần giải phóng quê hương vùng cao Sa Pa. Ông nội tôi không sáng tác văn chương nhưng trong ông là cả một dòng chảy lớn của văn hóa truyền thống, truyền đời theo phương thức kỳ diệu của tri thức dân gian, trong đó có cổ tích, có dân ca, có những truyện ngụ ngôn mang hàm lượng truyền bá kiến thức và giáo dục rất lớn, có tác dụng xây dựng tâm hồn, nhân cách con người trước hết là tại cộng đồng làng bản. Với những hành trang đó, cha tôi đã lên đường, đi học tại trường thiếu nhi dân tộc huyện, rồi từ những kiến thức được học, những cuốn sách được đọc, những say mê với chữ nghĩa và một quyết tâm lớn, nên cha tôi đã trở thành một nhà văn.

Tất cả những điều đó tác động tới tôi, làm cho tôi cũng say mê học hỏi và say mê viết. Càng học hỏi, tôi càng thấy kiến thức mênh mông trong chính vốn văn hóa truyền thống của người Mông, ví dụ bài tang ca chính là triết học cổ của dân tộc Mông, trong đó chứa đựng thế giới quan, nhân sinh quan và các quan niệm của người Mông về các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, với các quy luật.

leftcenterrightdel
Nhà văn Mã Anh Lâm.

PV: Anh đã tiếp nối truyền thống cũng như tiếng tăm của bố-nhà văn Mã A Lềnh, một người am tường và thành công khi khai thác đề tài miền núi như thế nào?

Nhà văn Mã Anh Lâm: Là con của một nhà văn, lại là nhà văn thuộc dân tộc thiểu số, tôi rất tự hào và thấy mình còn có trách nhiệm lớn lao là phải tiếp bước. Tôi vẫn đùa với bạn bè văn chương rằng “tôi thuộc loại quý hiếm, anh em phải chăm sóc tôi cho tốt không là tuyệt chủng đấy” (cười).

Để tiếp nối được cha tôi, trước hết tôi phải học, phải đọc thật nhiều và phải viết, xác định viết là lao động sáng tạo. Tranh thủ mọi thời gian để viết, trong quá trình viết lại phải chắt lọc, những dòng văn vừa phải mang hơi thở cuộc sống, vừa phải tiếp dẫn được truyền thống bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Đặc biệt, khi khai thác đề tài miền núi, phải am tường lối nghĩ, cách nói của người dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc có lối nghĩ, cách nói khác nhau, không thể đánh đồng, không thể đứng nhìn từ xa rồi viết đại, dân tộc nào cũng “Giàng ơi”, dân tộc nào cũng “cái bụng mình”... như vậy làm sai lệch tác phẩm của mình, dẫn đến sai lệch nhận thức của người đọc và vùng xã hội mà tác phẩm có tác động tới.

Thực ra ai cũng e ngại cái bóng cây đa, cây đề trên đầu mình, nhất là trong lĩnh vực sáng tạo văn học, nghệ thuật. Tôi tự hào về bố tôi, về những lao động sáng tạo và thành quả của bố, nhưng tôi không e ngại câu chuyện về cái bóng ấy, bởi tôi có cách đi riêng.

Lối đi riêng

PV: Có nghĩa là anh đã thoát ra khỏi “cái bóng” của thân phụ. Anh tự thấy cái “chất” độc đáo nhất trong sáng tác của anh là gì?

Nhà văn Mã Anh Lâm: Kết hợp giữa dân gian và hiện đại, tìm thấy những giá trị nhân văn trong cuộc sống vô cùng phong phú để hình tượng hóa đưa vào trang viết, đó là tâm niệm và chắc cũng là cái chất độc đáo trong sáng tác của tôi. Tác phẩm của tôi khó đoán trước, nhưng đưa ra thông điệp rõ ràng, có cảnh báo. Trước đây tôi đã được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành tiểu thuyết “Đối mặt phía nửa đêm”. Đó cũng là một trong những tác phẩm mang “sức nặng” để được xét kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Trong tiểu thuyết đó, tôi khai thác vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc Mông và một số dân tộc thiểu số anh em khác, cùng với nhịp sống hiện đại của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai lĩnh vực đó cùng vận động, tiếp biến, song hành trong bối cảnh đất nước đang đổi mới và phát triển. Tiểu thuyết có biên độ thời gian từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, tiễu phỉ cho đến thời kỳ công nghệ 3.0. Người dân tộc thiểu số biết ơn người Kinh đã đưa ánh sáng cách mạng về tập hợp, giải phóng cuộc sống nô lệ lầm than; người Kinh cũng giúp bà con dân tộc thiểu số phân biệt được đúng sai, phân biệt được những kẻ xấu ngụy trang dưới cái áo lợi dụng tôn giáo. Tuy nhiên, trong khi có nhân vật thiểu số đang tiến bộ, thì lại có nhân vật người Kinh tráo trở, cơ hội bị suy đồi, phạm pháp, phải đưa ra xét xử... Đó là sự bất ngờ trong mạch truyện, là kịch bản khó đoán của tiểu thuyết, không chỉ một chiều mà có tính cảnh báo.

Ngoài tiểu thuyết mà tôi vừa chia sẻ, tôi cũng viết truyện ngắn. Nếu tập hợp lại thì có lẽ đã được một tập truyện ngắn khá dày dặn. Truyện ngắn của tôi chủ yếu bật ra từ những tình huống trong cuộc sống. Tình huống không chỉ có thông tin một hay hai chiều mà còn nhiều chiều. Cụ thể là cùng một sự kiện, phải nghe bằng ba, bốn kênh thông tin khác nhau, mới nắm rõ được bản chất của sự kiện ấy.

PV: Vốn văn hóa là một tài sản. Anh may mắn được sinh ra ở một vùng đất giàu văn hóa. Anh đã phát huy lợi thế đó như thế nào? Trong văn chương, anh thấy mình còn thiếu gì?

Nhà văn Mã Anh Lâm: Đã mang danh nhà văn thì không thể viết chơi chơi, viết tùy hứng không cần biết hậu quả. Điều đó vừa là áp lực, vừa là động lực mỗi khi tôi cầm bút. Vì vậy mà tôi luôn cảm thấy mắc nợ và thiếu thốn. Cái thiếu nhất chính là tác phẩm có chất lượng cao về tư tưởng và nghệ thuật, xứng tầm với công cuộc xây dựng và phát triển của quê hương, đất nước. Lý do thì có thể nêu nhiều để đổ lỗi, nhưng thú thực là tôi vẫn đang viết dở tiểu thuyết “Đối mặt phía nửa đêm” phần II. Tôi chững lại bởi cần thêm chiêm nghiệm và đặc biệt là cần thêm thời gian. Hiện nay tôi không chú trọng về số lượng, mà chú trọng vào chất lượng. Mặt khác, làm công tác quản lý, tham mưu với cấp ủy, chính quyền tỉnh về các chủ trương, chính sách văn học, nghệ thuật; duy trì và bảo đảm hoạt động của hội với các chuyên ngành nghệ thuật khác nhau... cũng là việc đòi hỏi rất nhiều thời gian. Vậy nên, đôi khi ý tưởng về một truyện ngắn xuất hiện, nhưng tôi chỉ kịp ghi vắn tắt vào sổ tay.

Phải biết “dựa bóng” hội viên lão thành

PV: Là một lãnh đạo hội khi tuổi đời còn khá trẻ, anh có gặp khó khăn gì trong công việc cũng như tổ chức hội viên, bởi người sáng tạo thường rất cá tính, khó tránh khỏi chuyện “chín người mười ý”?

Nhà văn Mã Anh Lâm: Công việc lãnh đạo, quản lý ở Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lào Cai cơ bản là thuận lợi, vì lâu nay văn nghệ sĩ Lào Cai có truyền thống đoàn kết.

Tuy nhiên, cũng có cái khó khăn, đó là trong khi đại đa số hội viên luôn có ý thức tốt, xác định tài năng, tên tuổi, danh dự thông qua sáng tạo và có tấm lòng đại lượng, thì cũng có một số ít hội viên có biểu hiện nhỏ nhen và tự cao tự đại. Ví dụ như tác phẩm chưa hẳn là chất lượng tốt nhưng cứ đòi được đăng tạp chí của hội (ra hằng tháng), đòi số nào cũng phải có bài của mình, không chịu nhường nhịn cho hội viên khác trong khi số trang có hạn. Khi không được đáp ứng thì tỏ thái độ bất mãn vặt. Những việc đó gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh văn nghệ sĩ, hội viên. Để điều tiết được những tình huống đó, tôi cùng anh chị em trong ban chấp hành và trưởng, phó các chi hội đã vận động, giải thích; kết hợp giữa việc kiên quyết trong chỉ đạo biên tập xuất bản tạp chí với nhờ các hội viên lão thành cao tuổi phân tích, khuyên bảo một số hội viên đó. 

PV: Tuổi trẻ có lợi thế là sức trẻ, sự năng động, sáng tạo. Anh có cách gì đặc biệt, hoặc có đột phá gì để bồi dưỡng, phát triển hoạt động sáng tạo của các hội viên?

Nhà văn Mã Anh Lâm: Việc đầu tiên là tôi nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí, sứ mệnh của văn học, nghệ thuật trong đời sống và bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và địa phương. Hoạt động văn học, nghệ thuật phải bám sát thực tiễn địa phương, bám sát đời sống người dân. Làm văn nghệ không phải làm thời sự như làm báo, nhưng vẫn cần thiết bám sát đời sống kinh tế-xã hội nhằm chắt lọc, chưng cất hiện thực để lấy hình tượng xây dựng tác phẩm. Văn học, nghệ thuật là thỏa sức sáng tạo nhưng có sợi dây neo là sứ mệnh bồi dưỡng tâm hồn, xây dựng nhân cách con người mới.

Nhận thức tốt rồi, biết mình đang ở đâu rồi, việc tiếp theo là có những đề xuất khoa học, hợp lý với cấp lãnh đạo, quản lý mình, nhằm tạo nguồn lực bồi dưỡng, phát triển hoạt động sáng tạo cho hội viên. Mấy năm qua, lãnh đạo hội đã tham mưu với tỉnh đưa công tác phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu sáng tác trẻ vào một trong những đề án lớn của tỉnh, từ đó có nguồn kinh phí để tổ chức các lớp bồi dưỡng năng khiếu. Giải thưởng của hội được tổ chức 5 năm một lần cũng rất cao, khuyến khích được sự sáng tạo của hội viên.

PV: Trân trọng cảm ơn anh!

DIÊN KHÁNH (thực hiện)