Phóng viên (PV): Nhiều người nhận xét và chính nhà văn cũng tự nhận mình có cái gì riêng riêng với phụ nữ, chắc hẳn việc chinh phục người phụ nữ của đời mình không gây khó cho một anh lính đặc công đào hoa như Chu Lai?

Nhà văn Chu Lai: Đất nước hòa bình, tôi là một trong 22 sĩ quan trẻ được Tổng cục Chính trị tập hợp về trại viết đầu tiên của quân đội ở Đà Lạt, trong đó có những tên tuổi nổi tiếng, như: Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Xuân Đức, Phùng Khắc Bắc, Lê Lựu, Nguyễn Đức Mậu… Trại viết chỉ có Hồng-vợ tôi sau này-là biên tập viên nữ duy nhất mà chúng tôi hầu hết đều chưa vợ, ai cũng có máu chinh phục người đẹp. Lúc đó, Hồng đang có một anh hùng đặc công thủy theo đuổi và đã chuẩn bị tính chuyện ổn định. Tôi nghĩ, đối phương là đặc công, mình cũng đặc công; đối phương giỏi dưới nước, mình giỏi trên cạn; đối phương là anh hùng, mình là lính thường nhưng mình có lợi thế của người cầm bút…

Vậy là, đêm nào tôi cũng phủ chăn lên gối, để đôi dép dưới giường... để ngụy trang rồi trốn đến cửa phòng cô ấy đọc cho cô ấy nghe một chương tiểu thuyết, giữa tiếng ngáy của các nhà văn già phòng bên vọng sang, rồi về, không nói gì. Cứ vậy, đọc xong hơn 30 chương... thì chính thức yêu nhau. Chính tình cảm yêu đương đó làm cho cảm xúc người viết như tôi luôn cuồn cuộn tươi nguyên, cộng với vốn sống dồi dào khiến tôi viết với tốc độ kinh khủng. Trong một tháng, tôi viết xong tác phẩm đầu tiên “Nắng đồng bằng” và chính cô ấy là người biên tập cho tôi từng trang viết, rồi biên tập cả cuộc đời tôi.

leftcenterrightdel
Nhà văn Chu Lai

Về Hà Nội, có lần tôi tranh luận với bố vì một điều gì đó về văn chương, tức giận, tôi bỏ nhà ra ga Hàng Cỏ ngồi. Hồng đã theo ra ga, ngồi cạnh tôi suốt cả đêm lạnh. Sáng hôm sau, tôi quyết định đây sẽ là người đàn bà của đời mình và đám cưới được tổ chức vào cuối năm 1979, tôi mặc sơ mi, không đeo caravat, cô ấy mặc áo dài. Một đám cưới rất đơn sơ, đạm bạc chỉ có bánh kẹo thời bao cấp.

PV: Rồi, cuộc sống của gia đình quân nhân thời bao cấp đã diễn ra như thế nào?

Nhà văn Chu Lai: Đám cưới thời ấy không có khái niệm phong bì, chỉ có quà là những nồi niêu, soong, chảo, phích nước. Xong đám cưới, vợ chồng chở nhau trên chiếc xe đạp cùng đống đồ từ Lý Nam Đế về đường Ngọc Hà như một dãy hàng xén di động, đêm động phòng ở nhà chiêu đãi sở. Ở đó được 15 ngày, định xin gia hạn thêm thì bắt đầu cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc. Mỗi người lại đi một hướng và xác định có thể sẽ không gặp được nhau. Đêm trước khi đi, chúng tôi ngồi điểm lại mấy món đồ có giá trị nhất, như: Cái quạt tai voi, phích nước mang gửi... rồi dặn nhau, ai còn sống trở về phải nhớ để lấy.

Đoàn tụ, chúng tôi bắt đầu cuộc sống của gia đình thời bao cấp. Chưa có nhà riêng nên tôi ở Trại viết văn Vân Hồ. Cuối tuần, khi các nhà văn ở tỉnh về quê, có phòng trống thì vợ lại hành quân lên với tôi. Có con rồi chúng tôi càng thấm thía khó khăn của cuộc sống. Đồng lương không đủ nuôi nhau nửa tháng. Trời mưa, xung quanh cái đèn đom đóm giăng toàn tã của con. Những trưa trời nóng tôi phải dùng kỹ thuật đặc công trèo lên trần nhà, bò qua một số phòng sang nhà trẻ gần đó, mồ hôi nhỏ tong tỏng cả xuống mối điện để đấu trộm điện cho cái quạt tai voi quạt cho con...

Đó là cái thời mà sáng ra chỉ nghe tiếng ca nhôm quẹt quẹt vào đáy bể cạn nước. Cái thời mà mỗi sáng ra xếp hàng để mua tí dầu, rau, thịt. Cái thời mà đêm tân hôn người vợ hoặc chồng lỡ tay làm vỡ cái phích Rạng Đông 18 đồng, hôm sau có thể xung đột cãi nhau thậm chí ly dị. Thời mà sáng nào tôi cũng dậy sớm lấy đá trong tủ lạnh Saratov mang ra đầu phố bán lấy từng xu...

Nhớ có lần một biên tập già tốt bụng rủ chúng tôi đi Mộc Châu để viết cho một nông trường kiếm chút tiền cải thiện cuộc sống. Trong cái rét xuống đến 0 độ, vợ đi xuống nông trường lấy tài liệu, chồng ngồi nhà viết đến sái cánh tay để 3 ngày 3 đêm xong 150 trang. Viết xong đọc cho cán bộ các nông trường nghe ai cũng khóc. Tác giả cũng khóc. Trong sự khóc đó bụng còn nghĩ kiểu này sẽ được một khoản mang về nuôi con đây. Nhưng quà họ gửi đến là một bộ bàn ghế đóng đinh, không đánh véc-ni... và tôi không thể nhận lấy. Đó là một cú làm thêm ê chề. Rồi cũng có lần vào tận Đồng Nai viết nhưng trên đường về bị móc túi hết sạch tiền trên tàu… Và còn nhiều lần ê chề, cay đắng như vậy nữa. Nhưng dường như trong cuộc sống khó khăn như thế, các đôi tình nhân, cặp vợ chồng lại càng nương tựa vào nhau vượt qua mọi gian khổ.

PV: Cuộc sống gia đình của một “gã người rừng” bị “đeo gông” chắc cũng nhiều phen lao đao phải không, thưa nhà văn?

Nhà văn Chu Lai: Tôi nhớ lúc đám cưới tôi, có người đã nói, lão Chu Lai “người rừng” ấy, cưới rồi ba bảy hai mốt ngày lại tan thôi. Thế mà chúng tôi đã sống với nhau đến giờ đã sang năm thứ 41. Vợ chồng tôi cũng không phải không có những lúc xô bát, xô đũa. Ví như đêm khuya tôi ngồi viết “Ăn mày dĩ vãng”, lẽ ra vợ nhẹ nhàng đứng sau lưng vạch cổ áo tôi ra rồi khẽ thì thầm vào tai: Mai anh nhớ thay áo ra để em giặt. Đằng này, bà ấy vốn là một biên tập viên kỳ cựu nhìn vào lại nói: Anh lại viết lặp lại những chi tiết cũ rồi. Thế có điên không!

Có những lúc giận nhau tưởng chia tay đến nơi nhưng chúng tôi đều có điểm tựa từng đi qua chiến tranh. Tôi là một người đa tình. Có lúc cô ấy cũng ghen tuông nhưng ghen một cách rất biết điều, cái kiểu ghen của người đàn bà từng qua trận mạc. Có điều cô ấy không bao giờ lấy những mẫu hình đàn bà trong tiểu thuyết của tôi để ghen, thậm chí còn sửa chữa, biên tập cho kỹ hơn.

Nhiều người đã nói thằng cha Chu Lai này chẳng thủy chung đâu. Làm sao nó chịu nổi cuộc sống vợ chồng gò bó. Nhưng tôi nhận ra, hóa ra con người có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh. Chiến tranh tưởng như không chịu nổi, nhiều lúc muốn tự thương tự sát để trốn khỏi cuộc chiến mà vẫn chịu được, nhưng có một cuộc chiến tranh khác là sống chung với người đàn bà không phải họ hàng thân thích, cả đời bị quản lý mà vẫn thích nghi được. Thậm chí ngày nào cũng có một khát vọng gặp một lỗi gì đó để vợ đuổi ra khỏi nhà rồi hồ hởi, phấn khởi xách ba lô đi nhưng ra đến cổng sẽ vấp ngay phải rễ cây, đá hộc, vỉa hè bởi đã quen với cuộc sống trong nhà, thế là lại lủi thủi quay vào… Tôi nghiệm ra, nếu sống với nhau 3 năm, 5 năm mà không chia tay thì 5 năm, 3 năm đó lặn xuống thành đạo lý mà khi đã thành đạo lý rồi thì vợ chồng sống với nhau rất bền.

Có lần giận chồng cô ấy mang con về ngoại. Ban đầu tôi tưởng được tự do nhưng thực tế rất trống rỗng, lao đao. Ngày thứ ba cô ấy quay về lấy đồ thì tôi nói: Thời khó khăn, chiến tranh, bao cấp đã qua, bây giờ có của ăn của để mà chia tay thì thật phi lý. Vợ chồng nhìn nhau nước mắt bịn rịn, thế là lại hết giận hờn. Thời gian trôi qua, đám cưới đã hơn 40 năm, tuổi già, bệnh tật cũng kéo đến. Nếu ngày xưa đã nương tựa vào nhau thì bây giờ càng phải nương tựa vào nhau.

PV: Nói theo ý nghĩa nào đó thì có vẻ như thế hệ trẻ ngày nay kém may mắn hơn thế hệ các ông vì không có những điểm tựa bền chặt cùng nhau?

Nhà văn Chu Lai: Nếu tuổi trẻ bây giờ không được sung sướng, đủ đầy hơn chúng tôi ngày xưa thì những khó khăn, gian khổ chúng tôi đã trải qua thật vô nghĩa. Nhưng ở khía cạnh nào đó, thế hệ trẻ bây giờ lại bất hạnh hơn thế hệ chúng tôi vì chỉ khi nào có sự đối xứng giữa cực kỳ khó khăn thiếu thốn với cực kỳ no đủ thì mới biết thế nào là no đủ. Tuổi trẻ bây giờ không biết thế nào là gian khổ thực sự thì không biết thế nào là hạnh phúc thực sự. Nhưng các bạn trẻ cũng có may mắn riêng. Ngày xưa không lấy được nhau thì khổ đau dằn vặt cả đời, bây giờ không lấy được người này thì lấy người khác. Bản chất tình yêu vẫn là bão tố giằng dịt, tha thiết chỉ là cách triển khai khác nhau, không cố định ở cái gì cổ kính mà có gì hiện đại hơn. Có điều thiệt thòi là các cô gái bây giờ không được đọc những trang viết bằng tay-hồn vía của tình yêu. Và nói như cách của Chu Lai thì bất hạnh nhất là tìm mãi được cô người yêu nhưng nụ hôn đầu tiên cô gái lại mở mắt thao láo nhìn xem anh chàng hôn theo kiểu nào.

PV: Trong tình yêu là vậy, còn lý tưởng tuổi trẻ, ông có nghĩ thế hệ trẻ ngày nay khác với thế hệ của ông?

Nhà văn Chu Lai: Đừng nghĩ rằng tuổi trẻ hôm nay quên hết tất cả giá trị lịch sử mà chỉ biết hưởng thụ. Một câu hỏi đặt ra là nếu mai đây Tổ quốc lâm nguy, đất nước khó khăn thì tuổi trẻ có ào ạt cầm súng, tràn ngập lý tưởng như các thế hệ cha anh? Tôi nghĩ là có. Lòng yêu nước không phải của riêng ai, riêng thế hệ nào. Thế hệ chúng tôi biểu hiện lòng yêu nước bằng vượt dãy Trường Sơn, xông pha cứu nước, thế hệ bây giờ là tích lũy tri thức làm giàu cho chính mình và cộng đồng nhưng các thế hệ đều giống nhau một điều là có lòng tự trọng dân tộc. Nếu bây giờ có ai đó xúc phạm đến bàn thờ ông bà, tin rằng thế hệ trẻ hôm nay sẽ quên hết để ra đi oai hùng như thế hệ cha anh.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

DƯƠNG THU (thực hiện)