Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, Chiến lược này có gì mới so với những văn bản trước đây về CNVH của nước ta?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Chiến lược đánh dấu bước tiến rất quan trọng trong tư duy phát triển văn hóa của nước ta. Nếu như trước đây, các văn bản nhìn nhận phát triển CNVH ở bối cảnh cũ, hoặc thường nhấn mạnh việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, hoặc phát triển các lĩnh vực nghệ thuật riêng lẻ; thì lần này, chúng ta tiếp cận một cách toàn diện hơn, đặt văn hóa trong mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng và sự bùng nổ của khoa học-công nghệ (KHCN), đặc biệt là chuyển đổi số. Điều này phù hợp với tinh thần của các nghị quyết lớn về KHCN, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển kinh tế tư nhân, hay gần đây là về giáo dục và y tế-cho thấy hệ thống chính sách văn hóa ngày càng gắn bó chặt chẽ với tổng thể chính sách phát triển.
Chiến lược khẳng định CNVH không còn là lĩnh vực phụ trợ mà trở thành một động lực tăng trưởng, đóng góp rõ rệt vào GDP, tạo việc làm chất lượng cao và nâng cao sức mạnh mềm của quốc gia. Đây là lần đầu tiên chúng ta có một chiến lược đặt mục tiêu lượng hóa rất cụ thể. Việc xác định rõ 10 ngành CNVH (so với trước đây là 12) với ưu tiên công nghệ số, sáng tạo số, dữ liệu và trí tuệ nhân tạo chính là tinh thần “văn hóa trong kỷ nguyên số” mà chúng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: Nội dung văn hóa vẫn là yếu tố cốt lõi, nhưng công nghệ trở thành phương thức sản xuất mới.
CNVH được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với du lịch, truyền thông, đô thị sáng tạo, giáo dục lực lượng lao động sáng tạo và bảo tồn di sản. Nghĩa là, CNVH không đứng một mình, mà trở thành “lực kéo” cho cả một hệ sinh thái phát triển. Đặc biệt, Chiến lược đặt ra cơ chế và điều kiện để hiện thực hóa. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản so với các văn bản trước đây-nơi chúng ta nói nhiều về mục tiêu nhưng chưa làm rõ công cụ thực thi.
PV: Trong 10 ngành CNVH chủ chốt được xác định ưu tiên, điện ảnh vẫn được cho là ngành mũi nhọn, được nhắc đến đầu tiên. Theo đồng chí, những yếu tố nào của điện ảnh Việt hiện nay giúp ngành này đáp ứng tốt yêu cầu phát triển CNVH?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Trước hết, điện ảnh là ngành có khả năng lan tỏa lớn nhất trong việc quảng bá hình ảnh quốc gia, kể câu chuyện về đất nước, con người Việt Nam bằng ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại và phổ quát. Trong thời đại kinh tế sáng tạo, quốc gia nào sở hữu những tác phẩm điện ảnh hấp dẫn, có bản sắc, quốc gia đó có lợi thế trong cạnh tranh mềm, trong xây dựng thương hiệu quốc gia. Đây là những lợi ích mà các nền điện ảnh lớn đã chứng minh rất rõ, từ Hàn Quốc, Nhật Bản đến Ấn Độ, Thái Lan... và Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó.
Nhìn vào thực tiễn những năm gần đây, có thể thấy điện ảnh Việt Nam hoàn toàn có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển ngành CNVH. Đó là thị trường điện ảnh đang phát triển rất nhanh, có tốc độ tăng trưởng nằm trong nhóm cao nhất khu vực. Chúng ta đang có một lực lượng làm nghề ngày càng trẻ, đông đảo và sáng tạo. Cùng với sự phát triển của công nghệ sản xuất phim những năm gần đây, giúp điện ảnh Việt Nam có thể đáp ứng yêu cầu sản xuất những tác phẩm quy mô lớn, có tầm quốc tế, đồng thời giảm chi phí, tăng hiệu suất sáng tạo.
Việt Nam có kho tàng văn hóa-lịch sử-thiên nhiên vô cùng phong phú, đủ sức trở thành nguồn tài nguyên nội dung bền vững. Khi những giá trị ấy được khai thác đúng cách, chúng không chỉ tạo ra những bộ phim hấp dẫn mà còn kéo theo du lịch, quảng bá hình ảnh, tạo hiệu ứng lan tỏa kinh tế-xã hội lớn hơn nhiều so với một sản phẩm văn hóa đơn thuần.
Sự thành công của một số bộ phim gần đây, đặc biệt các phim về lịch sử, chiến tranh cách mạng là tín hiệu quan trọng chứng minh rằng điện ảnh Việt Nam có nền tảng xã hội vững chắc để bứt phá.
PV: Chiến lược đưa ra định hướng ngành điện ảnh tăng cường khai thác các yếu tố văn hóa, lịch sử, đất nước, con người, danh lam thắng cảnh... Đây là điều mà bản thân ngành điện ảnh lâu nay cũng đang hướng tới nhưng dường như chưa thực sự được như kỳ vọng, thưa đồng chí?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Thực ra đây là một yêu cầu đã được đặt ra từ lâu, không chỉ trong giới làm điện ảnh mà cả trong chính sách văn hóa. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có nhiều tác phẩm tạo dấu ấn mạnh mẽ, chưa đạt được sự kỳ vọng mà xã hội mong muốn. Điều này có nguyên nhân từ cả phía ngành điện ảnh lẫn môi trường hỗ trợ xung quanh.
Trước hết, phải thẳng thắn rằng khai thác các yếu tố văn hóa-lịch sử là một công việc khó. Nhiều dự án từng thất bại vì thiếu kịch bản đủ mạnh, cách kể còn cũ, hoặc chưa tìm được ngôn ngữ phù hợp với khán giả trẻ-nhóm đối tượng quyết định doanh thu phòng vé.
Thêm nữa, chúng ta còn thiếu các thiết chế hỗ trợ sáng tạo mang tính chuyên nghiệp: Quỹ phát triển điện ảnh, hệ thống tư liệu lịch sử-văn hóa được số hóa, đội ngũ tư vấn chuyên môn, các trung tâm hỗ trợ sản xuất phim, khu công nghiệp điện ảnh, trường quay tương tác, studio kỹ xảo... Nếu không có hệ sinh thái đủ mạnh, rất khó kỳ vọng các đạo diễn, biên kịch có thể an tâm sáng tạo những bộ phim đòi hỏi đầu tư cao, rủi ro lớn như các phim về đề tài văn hóa-lịch sử. Nếu cơ chế chính sách không chia sẻ rủi ro, không tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thì không lạ khi nhiều nhà sản xuất chọn hướng đi an toàn hơn như remake (làm lại) hay phim giải trí.
Cũng phải nói rằng, chúng ta thiếu những dự án tầm quốc gia có khả năng trở thành biểu tượng văn hóa đại diện cho đất nước. Điện ảnh muốn phát triển mạnh cần những tác phẩm “cột mốc”, những dự án lớn đủ sức tạo ra chuẩn mực mới, lan tỏa trong xã hội. Điều này đòi hỏi tầm nhìn dài hạn và sự đầu tư chiến lược, điều mà Chiến lược đã nhấn mạnh rất rõ.
Tôi cho rằng chính sự thiếu đồng bộ giữa khát vọng của nghệ sĩ, nhu cầu của khán giả và cơ chế hỗ trợ của Nhà nước là nguyên nhân khiến định hướng “lấy văn hóa-lịch sử làm chất liệu” tuy đúng nhưng chưa thực sự đi vào đời sống điện ảnh như kỳ vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những phim thành công gần đây cho thấy chúng ta hoàn toàn có thể tạo nên những tác phẩm vừa có giá trị nghệ thuật, vừa chinh phục được thị trường.
    |
 |
"Mưa đỏ" là bộ phim có doanh thu phòng vé cao nhất Việt Nam hiện nay. (Ảnh hậu trường phim do Điện ảnh Quân đội nhân dân cung cấp)
|
PV: Thực tế thị trường điện ảnh những năm gần đây cho thấy, những bộ phim khai thác văn hóa, lịch sử lại khó thành công về doanh thu, kém thu hút người làm phim. Trong khi không khó để thấy trong danh mục những phim doanh thu trăm tỷ có nhiều phim remake, giải trí đơn thuần. Đó liệu có phải là mâu thuẫn?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng, nếu nhìn một cách bình tĩnh và khoa học, đây không hẳn là mâu thuẫn, mà phản ánh quy luật phát triển tự nhiên của thị trường điện ảnh. Một thị trường điện ảnh trẻ, mới hình thành như Việt Nam sẽ luôn khởi đầu bằng những dòng phim dễ tiếp cận khán giả. Điều này hoàn toàn bình thường và nhiều nền điện ảnh châu Á từng trải qua giai đoạn tương tự trước khi đạt tới sự đa dạng phong phú như ngày nay.
Việc phim giải trí thống trị bảng doanh thu; còn phim văn hóa-lịch sử gặp khó khăn chưa phải là mâu thuẫn, mà là hệ quả của sự khác biệt về đặc tính loại hình. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào doanh thu phòng vé để đánh giá ngành điện ảnh thì chưa đủ. Điện ảnh có hai sứ mệnh: Vừa là một ngành kinh tế, vừa là một hình thức nghệ thuật-biểu đạt bản sắc của quốc gia. Cần có sự cân bằng và chính Chiến lược đã đặt ra mục tiêu này: Vừa thúc đẩy thị trường, vừa phát triển những dòng phim mang giá trị lâu dài.
Đằng sau hiện tượng “phim văn hóa-lịch sử ít doanh thu” là những vấn đề căn bản hơn như đã nói ở trên. Do đó, hiện tượng mà đồng chí gọi là “mâu thuẫn” thực ra phản ánh một thách thức mang tính cơ cấu. Điện ảnh Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt: Từ nền điện ảnh thị trường non trẻ chuyển sang nền điện ảnh công nghiệp với đầy đủ thiết chế, chính sách và hệ sinh thái hỗ trợ. Khi những điều kiện đó được bổ sung đầy đủ theo tinh thần Chiến lược, chúng ta sẽ thấy sự cân bằng tự nhiên và khi đó, phim khai thác bản sắc dân tộc chắc chắn sẽ tìm được vị trí xứng đáng của mình.
PV: Việc xuất hiện những bộ phim về lịch sử, chiến tranh cách mạng gần đây với doanh thu cao, được khán giả yêu thích có phải là tín hiệu đáng mừng và gợi ý một hướng đi cho công nghiệp điện ảnh?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng sự xuất hiện của những bộ phim lịch sử, chiến tranh cách mạng đạt doanh thu cao trong thời gian gần đây là tín hiệu đặc biệt đáng mừng-không chỉ đối với giới làm điện ảnh mà còn đối với cả xã hội. Từ góc độ CNVH, những thành công này còn gợi mở một hướng đi quan trọng: Điện ảnh Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng thương hiệu quốc gia trên nền tảng bản sắc và lịch sử dân tộc như nhiều nền điện ảnh lớn trên thế giới đã tạo dựng vị trí bằng chính những câu chuyện mang tính dân tộc như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản.
Không chỉ vậy, các bộ phim thành công gần đây thường kéo theo hiệu ứng kinh tế-xã hội rất rõ rệt: Tăng lượng khách du lịch tại bối cảnh quay, lan tỏa hình ảnh địa phương, thúc đẩy các sản phẩm sáng tạo ăn theo, đồng thời tạo dựng nền tảng để phát triển thị trường bản quyền, chuyển thể, hợp tác quốc tế. Đây chính là tinh thần mà Chiến lược mong muốn: Điện ảnh không chỉ tạo ra sản phẩm nghệ thuật, mà trở thành động lực phát triển cho cả một hệ sinh thái CNVH.
Tôi tin rằng nếu chúng ta tiếp tục kiên trì theo đuổi những dự án điện ảnh mang tầm vóc lịch sử-văn hóa, có sự đầu tư bài bản, đi kèm với các chính sách hỗ trợ hợp lý, thì sự thành công của một vài bộ phim hôm nay có thể trở thành bước ngoặt của cả ngành điện ảnh. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để khẳng định vị thế một nền điện ảnh từng bước trưởng thành, biết khai thác bản sắc của chính mình để chinh phục khán giả trong và ngoài nước.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
DƯƠNG THU (thực hiện)