Tự bạch về “cái tôi”

Phóng viên (PV): Thưa Giáo sư, cơ duyên nào đã dẫn lối ông trở thành nhà lý luận quân sự và trở thành Chủ nhiệm đề tài khoa học “Học thuyết Quân sự Việt Nam”?

Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ: Tôi hoạt động cách mạng từ năm 1943, khi mới 17 tuổi, tham gia Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu (Hà Nội). Tôi vào Đảng từ năm 19 tuổi, đến năm 22 tuổi, trong kháng chiến chống Pháp, được tổ chức phân công lần lượt tham gia Huyện ủy Thanh Liêm và Kim Bảng, rồi làm Bí thư Huyện ủy Bình Lục. Đến cuối năm 1950, khi tôi đang làm tỉnh ủy viên, Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Nam thì có sự kiện đồng chí Nguyễn Chí Thanh (Đại tướng Nguyễn Chí Thanh) được Đảng điều vào công tác trong quân đội. Đại tướng Thanh đã đề nghị Trung ương, mỗi tỉnh điều động tăng cường cho quân đội 2-3 tỉnh ủy viên. Lúc đó tôi chưa vợ nên được Tỉnh ủy Hà Nam cử vào quân đội cùng một đồng chí phó bí thư tỉnh ủy. Anh Đỗ Mười, lúc đó là Chính ủy Liên khu III, có chủ trương anh em mới vào quân đội thì khiêm tốn nhận làm cấp phó để học việc. Vì vậy, tôi được phân công làm Phó ban Tuyên huấn Liên khu III. Sau đó, tôi lần lượt trải qua các chức vụ chỉ huy cấp tiểu đoàn, trung đoàn trong kháng chiến chống Pháp, cấp sư đoàn trong kháng chiến chống Mỹ. Tôi đã tốt nghiệp nhiều lớp lý luận của quân đội. Năm 1979, khi đang làm Chính ủy Trường Quân chính Quân đoàn 1 thì tôi được anh Hoàng Minh Thảo (Thượng tướng Hoàng Minh Thảo) xin điều về làm Phó trưởng Khoa Chiến lược, Học viện Quân sự cấp cao (Học viện Quốc phòng hiện nay). Đến năm 1990, khi anh Thảo về Viện Chiến lược Quân sự thì anh lại “mang theo” tôi và một số đồng chí khác. Tôi về làm Trưởng ban Đường lối, Học thuyết Quân sự của viện.

Tôi tự bạch đôi lời không phải để lải nhải về “cái tôi đáng ghét” như câu phương ngôn của văn hóa Pháp, mà để công khai chút vốn liếng thực tiễn, chứ không mang tiếng “kẻ bán da gấu” khi dám nhận nghiên cứu một đề tài tầm cỡ như “Học thuyết Quân sự Việt Nam”. Năm 1995, khi làm đề cương nghiên cứu, tôi đã bảo vệ trước Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng, một tổ chức quy tụ nhiều bộ óc chiến lược ưu tú cả về lý luận và thực tiễn quân sự, những tướng lĩnh cấp cao dày dạn kinh nghiệm chiến trường.

leftcenterrightdel
Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ.

Vòng tròn Aristoteles

PV: Tôi nhớ có lần Giáo sư đã nói rằng, nghiên cứu học thuyết quân sự Việt Nam giống như chuyện “vòng tròn của Aristoteles”?

Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ: Đúng vậy! Tôi luôn lấy câu chuyện “vòng tròn của Aristoteles” làm phương châm phấn đấu. Nhà bác học cổ Hy Lạp Aristoteles, cha đẻ của logic sơ khai, vốn là thầy dạy của Alexandre Đại đế, khi vào tuổi mãn chiều đã nghiệm ra một vấn đề lý thú: Càng mở rộng tầm hiểu biết càng phát hiện ra nhiều điều chưa biết. Bản tổng kết được diễn đạt bằng hình vẽ. Trước tiên là một chấm đen, tiêu biểu cho hiểu biết ban đầu, phần tiếp giáp xung quanh chấm đen là những điều chưa biết. Đối với một chấm đen nhỏ xíu thì phần tiếp giáp chung quanh chẳng đáng là bao. Nhưng vòng tròn càng mở rộng thì mới thấy khoảng trống xung quanh càng lớn. So với những điều còn chưa biết bao quanh thì “vòng tròn hiểu biết” thật nhỏ bé.

Phương châm ấy chi phối suy nghĩ của tôi từ khi chuẩn bị đề cương nghiên cứu. Tôi đã huy động mọi kiến thức từ quá trình chiến đấu và công tác, từ mọi loại tự điển và từ điển bách khoa của Pháp, Anh, Mỹ đến từ điển quân sự của Trung Quốc. Tất nhiên là không thể bỏ qua “Bách khoa toàn thư quân sự Liên Xô”. Còn về sách lịch sử chiến đấu của dân tộc Việt Nam, từ “Hịch tướng sĩ”, “Binh thư yếu lược”, “Hổ trướng khu cơ” đến “Di chúc Canh Tý căn dặn Vua Trần”; rồi “Bình Ngô đại cáo”, “Phú núi Chí Linh” đến “Văn bia Vĩnh Lăng” của Nguyễn Trãi, “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn. “Võ kinh thất thư” của Trung Quốc thì phải tham khảo 2, 3 dị bản. Riêng các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Việt Nam thì tôi đã nghiên cứu rất nhiều trong hơn 10 năm giảng dạy ở Học viện Quân sự cấp cao.

Khi bảo vệ đề cương, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng khi đó là Thượng tướng Đào Đình Luyện kết luận: “Học thuyết Quân sự Việt Nam” đã trở thành cấp thiết nhưng là một đề tài lớn và rất khó. Chủ nhiệm đề tài đã đi sâu đến mức này thì phải cố gắng hoàn thành”. Vì vậy mà mãi năm 2002, khi bảo vệ xong đề tài, sửa chữa hoàn chỉnh, tôi mới được quân đội cho nghỉ hưu ở tuổi 76. Vừa qua, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia cho xuất bản thành sách “Về học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” đã khẳng định, cuốn sách là tài liệu góp phần phục vụ việc triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Có học thuyết quân sự Việt Nam hay không?

PV: Nghe nói, Giáo sư đã trải qua rất nhiều “đoạn trường” mới bảo vệ thành công đề tài?

Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ (cười): Gọi là “đoạn trường” cũng không sai. Bắt đầu từ cái tên. Có học thuyết quân sự Việt Nam hay không, hay “học thuyết chiến tranh nhân dân”? Chúng tôi lần lượt đặt ra, lần lượt thảo luận trong hội nghị và trên các tạp chí lý luận, lần lượt xin ý kiến, lần lượt biên soạn và biên tập... Những đồng chí lãnh đạo quan tâm đến đề tài như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo... phải nghe chúng tôi báo cáo nhiều lần, cho ý kiến nhiều lần và không phải ý kiến các cụ lúc nào cũng đi chung một hướng. Đề tài đã qua 8 lần hội thảo cấp viện với 184 lượt người tham dự, 3 lần hội thảo cấp Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng với 81 lượt người dự; gửi văn bản và trực tiếp xin ý kiến 342 lượt người, bao gồm 98 đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, 55 lượt chuyên gia đầu ngành có liên quan, 92 cơ quan và đơn vị quân đội. Sau khi nghiệm thu cấp viện còn trải qua cuộc hội thảo của 55 tướng lĩnh, rồi xin ý kiến của Quân ủy Trung ương.

leftcenterrightdel
Một số sách đã xuất bản của Giáo sư Bùi Phan Kỳ về học thuyết quân sự Việt Nam.

Việt Nam có tư chất quân sự riêng

PV: Tôi đã đọc một số tác phẩm của Friedrich Engels, ông cho rằng đứng về phía quân sự mà nói thì có những dân tộc có tư chất quân sự riêng của mình. Vậy tại sao chúng ta vẫn tranh luận chuyện có hay không học thuyết quân sự Việt Nam, thưa Giáo sư?

Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ: Về điểm này thì chúng tôi may mắn có sự ủng hộ, đồng tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngay từ đầu. Trong một lần hội thảo đầu năm 1996, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Tôi nói ngay là có một học thuyết quân sự Việt Nam. Rồi Đại tướng kể năm 1971, khi Đại tướng được Bộ Chính trị cử sang Liên Xô xin viện trợ vũ khí cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Một đồng chí lãnh đạo của bạn hỏi Đại tướng về so sánh lực lượng giữa ta và Mỹ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trả lời: “Tôi hiểu câu hỏi của đồng chí. Tôi hiểu học thuyết quân sự Liên Xô là hết sức ưu việt và đã đánh thắng Hitler. Nhưng nếu chúng tôi đánh theo cách của các đồng chí thì chúng tôi không đứng nổi hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi đánh theo cách khác, theo học thuyết quân sự Việt Nam và chúng tôi sẽ thắng”.

Có sự khẳng định ngay từ đầu như vậy nên chúng tôi kiên trì nghiên cứu học thuyết quân sự Việt Nam, có phân biệt thời phong kiến với thời đại Hồ Chí Minh. Học thuyết ở đây không làm nhiệm vụ “đường lối quân sự của nhà nước hoặc cá nhân lãnh đạo” như cách hiểu của giới quân sự Âu-Mỹ, mà làm nhiệm vụ một luận thuyết chỉ đạo các vấn đề liên quan tới hoạt động quân sự-quốc phòng, có sức thuyết phục như các học thuyết đã lưu hành trong xã hội loài người. Ở đây cần phân biệt học thuyết với đường lối quân sự của Đảng và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Học thuyết quân sự Việt Nam không đề ra chủ trương nhiệm vụ quân sự cho mỗi thời kỳ cách mạng như đường lối quân sự của Đảng, cũng không đi vào lĩnh vực chỉ huy và quản lý các lực lượng vũ trang như nghệ thuật quân sự. Nó xuất phát từ thực tiễn đấu tranh của dân tộc mà khái quát thành những luận điểm chỉ đạo việc quy tụ sức mạnh và sử dụng sức mạnh, phục vụ cho sự nghiệp giữ nước qua mỗi thời kỳ lịch sử. Những luận điểm của học thuyết có vai trò như những mệnh lệnh của lịch sử, không thế hệ nào được cưỡng lại nếu không muốn thất bại.

Vì thế, ban chủ nhiệm đề tài chúng tôi tự nguyện làm chân thư ký ghi chép, không tự ý đặt ra cái gì, thêm bớt cái gì mà chỉ làm nhiệm vụ sưu tầm, tiếp nhận, sàng lọc, sắp xếp thành hệ thống luận điểm, như những nhát cuốc vỡ hoang, khai phá cánh rừng rậm rạp, giành quyền sửa chữa, bổ sung, phát triển cho thế hệ mai sau.

Thời nào cũng phải “người trước, súng sau”

PV: Giáo sư có thể đưa ra quan niệm về học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh một cách ngắn gọn và dễ hiểu nhất cho giới trẻ hiện nay tiếp cận. Trong tình hình hiện nay, việc vận dụng và phát triển học thuyết cần chú ý những vấn đề gì, thưa Giáo sư?

Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ: Học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là hệ thống luận điểm, quan điểm chỉ đạo nghệ thuật tạo ra sức mạnh và sử dụng sức mạnh tổng hợp của đất nước, dân tộc, thời đại trong khởi nghĩa, chiến tranh cách mạng và quốc phòng, lấy LLVT làm nòng cốt để cứu nước và giữ nước, bảo vệ chế độ của dân tộc Việt Nam vốn thường phải lấy nhỏ thắng lớn, cả nước đánh giặc trong sự nghiệp đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

Từ thực tiễn tình hình thế giới và trong nước những năm đầu thế kỷ 21, việc trước tiên là phải thực hiện bước phát triển căn bản từ học thuyết quân sự Việt Nam thời kỳ giải phóng dân tộc sang thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm mục tiêu chiến lược. Tiếp đó là phát triển học thuyết quân sự  Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc trong xu thế toàn cầu hóa. Việc thực hiện giữ nước và bảo vệ chế độ hiện nay phải theo quan điểm của Hồ Chí Minh: “Chính trị trọng hơn quân sự”, “người trước, súng sau”. Đặc biệt là phải gắn chặt công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với hiện đại hóa quốc phòng theo hướng chủ động chuẩn bị phòng, chống chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, không để đất nước bị bất ngờ về chiến lược.

Học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là cẩm nang, bí quyết để các thế hệ người Việt Nam nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, lúc nào cũng cần được tiếp tục nghiên cứu, giữ gìn và phát triển sáng tạo trong một thế giới biến đổi nhanh và khó lường như hiện nay.

PV: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

HỒNG HẢI (thực hiện)