Phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần đã trao đổi với ông Nguyễn Tử Quảng, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành (CEO) Tập đoàn Bkav, xung quanh “Make in Vietnam”.
Khó khăn lớn nhất là định kiến
Phóng viên (PV): Vì sao hiện tại chúng ta mới bắt đầu xây dựng thương hiệu “Make in Vietnam”, thưa ông?
Ông Nguyễn Tử Quảng: Đối với Bkav, chúng tôi rất mong muốn xây dựng thương hiệu “Make in Vietnam” và từ khía cạnh doanh nghiệp, chúng tôi đã bắt tay xây dựng từ hơn 10 năm trước.
Năm 2005, chúng tôi bắt đầu thương mại hóa phần mềm diệt virus Bkav sau đúng 10 năm cung cấp miễn phí với kỳ vọng sẽ có nguồn lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng sự hỗ trợ đến cộng đồng. Trong 10 năm cung cấp miễn phí, chúng tôi chỉ có một mục đích là làm được việc hữu ích cho xã hội. Sau khi thương mại hóa, chúng tôi nhận ra mình có thể làm tốt hơn thế. Việt Nam có thể sản xuất sản phẩm công nghệ cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn công nghệ trên thế giới.
Năm 2009, Bkav quyết định tham gia vào sản xuất smartphone. Đây là một cơ hội để Bkav phát triển trở thành một tập đoàn công nghệ, nhưng hơn thế, đây là một cơ hội lớn để chúng tôi khẳng định năng lực của người Việt Nam: Việt Nam có thể sản xuất những sản phẩm công nghệ hàng đầu thế giới để cạnh tranh với các tập đoàn công nghệ hàng đầu và lần này là một sản phẩm hữu hình, có thể cầm nắm, dễ cảm nhận hơn là phần mềm. Tôi kỳ vọng lần này chúng tôi có thể thuyết phục người Việt Nam tin vào năng lực của chính mình.
Và đến ngày nay, càng thấy rõ hơn phát triển đất nước bắt buộc phải dựa vào khoa học công nghệ (KHCN). Việc Bộ Thông tin và Truyền thông thúc đẩy chủ trương “Make in Vietnam” sẽ giúp các doanh nghiệp KHCN tự tin hơn trong việc phát triển doanh nghiệp trong xu thế cạnh tranh toàn cầu.
PV: Là một người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng thương hiệu “Make in Vietnam” với những sản phẩm công nghệ tự nghiên cứu, tự sản xuất, theo ông, những thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp Việt là gì?
Ông Nguyễn Tử Quảng: Khó khăn lớn nhất là định kiến. Định kiến Việt Nam là nước chưa phát triển thì không thể cạnh tranh với các nước hàng đầu. Đặc biệt, đây là định kiến của cả một xã hội thì không thể thay đổi một sớm một chiều mà phải là một công việc trường kỳ.
Các bạn có thể thấy, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, lần thứ hai về cơ khí hóa, điện khí hóa diễn ra trong 200 năm, nhưng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba về bán dẫn, máy tính cá nhân và internet chỉ diễn ra trong 50 năm. Kể từ đầu thập niên 2010, nhân loại đã bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cứ như vậy, chỉ tối đa trong 25 năm nữa là đã có sự bùng nổ. Và đây là cơ hội, vận hội lớn cho những nước như Việt Nam chúng ta.
Nước chúng ta có thị trường rộng lớn, lại trong một thế giới phẳng, kết nối, nên chúng ta có thể sử dụng nguồn lực của cả thế giới. Vấn đề là có sáng tạo hay không. Kết quả 10 năm qua của Bkav đã là ví dụ điển hình để khẳng định điều này. Giống như việc Bkav ở Việt Nam, một đất nước đang phát triển, nhưng vẫn có thể làm ra những sản phẩm công nghệ cao như Bphone, những sản phẩm tương tự như Apple, Samsung đang làm và cũng có thể làm việc với các đối tác giống như Apple, Samsung. Làm được điều đó là do kết nối phẳng. Và trong thế giới phẳng này, mọi điều sẽ trở nên thuận lợi hơn. Chúng ta phải nắm lấy cơ hội này.
Chính sách đúng sẽ phát triển bùng nổ
PV: Việt Nam đi sau nhiều nước tiên tiến, vậy cần làm gì để bắt kịp thế giới?
Ông Nguyễn Tử Quảng: Cạnh tranh thẳng với những công ty công nghệ hàng đầu thế giới. Đó là cách tốt nhất. Như đã nói, thế giới ngày nay là thế giới phẳng và kết nối. Vì thế, chúng ta có thể sử dụng nguồn lực của cả thế giới, giống như các công ty hàng đầu thế giới đang sử dụng. Xã hội hiện nay đang phát triển rất nhanh. Những công ty hàng đầu hiện nay cũng có nguy cơ tụt hậu rất nhanh nếu không chịu cải tiến và nắm bắt cơ hội. Lấy ví dụ như trước đây Nokia đang là số 1 thế giới, sau một thời gian ngắn đã bật ra khỏi vị trí đó. Hay gần đây Samsung cũng có dấu hiệu tụt hậu. Và đó là cơ hội của các công ty công nghệ ở Việt Nam.
PV: Vai trò của chính sách đối với việc xây dựng thương hiệu “Make in Vietnam” như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Tử Quảng: Nếu muốn KHCN là động lực phát triển của quốc gia thì không thể thiếu vai trò của chính sách. Thực tế trong hơn 10 năm qua Bkav đã làm, nhưng chính sách chưa thực sự thuận lợi để các doanh nghiệp bùng nổ. Trước đây, các doanh nghiệp vẫn phải tự mình vận động và gần như chưa có sự hỗ trợ của chính phủ. Trong khi các nước và vùng lãnh thổ phát triển dựa trên KHCN như Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, hay gần đây nhất là Trung Quốc... thì chính sách và sự hỗ trợ của chính phủ đứng sau là rất lớn. Cần nói rõ sự hỗ trợ ở đây là doanh nghiệp tốt rồi, nhà nước tạo điều kiện để thúc đẩy doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp làm việc, chứ không phải dựa dẫm vào chính phủ.
PV: Ông có thể dự báo tương lai của “Make in Vietnam”?
Ông Nguyễn Tử Quảng: Cơ hội để Việt Nam phát triển dựa vào KHCN là rất lớn. Nhưng đây là cơ hội chung của thế giới. Cả thế giới cùng xuất phát điểm. Điều đó là thuận lợi, nhưng sự cạnh tranh cũng vô cùng lớn. Nếu thực hiện không bài bản thì rất khó để bứt phá. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp KHCN cũng rất cần sự thúc đẩy mạnh mẽ của chính phủ.
Và một điều quan trọng không kém là Việt Nam cần xóa bỏ định kiến là người Việt Nam không thể làm ra những sản phẩm cạnh tranh với những nước hàng đầu. Nếu thay đổi định kiến đó, trong 10 năm tới, Việt Nam có thể phát triển bùng nổ và trong 15 năm tiếp theo có thể trở thành cường quốc về công nghệ. Dựa vào KHCN để xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường không phải là điều không thể!
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Bà Tô Thị Thu Hương, Phó vụ trưởng Vụ Công nghệ thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông) cho biết: “Từ cuối năm 2018, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tính tới việc phải có một slogan cho ngành công nghiệp ICT nước nhà. Sau khi cân nhắc, chúng tôi mạnh dạn đề xuất thông điệp “Make in Vietnam”. “Make in Vietnam” nếu lần đầu nghe sẽ khiến nhiều người có cảm giác có gì đó sai sai, nhưng cũng chính vì thế mà nó tạo hiệu ứng truyền thông. Vì cảm thấy sai, mọi người sẽ phải đọc lại và suy ngẫm. Cụm từ “Made in Vietnam” mang tính là “sản xuất ở Việt Nam”, không có sự chủ động mà chia theo thể bị động. Còn “Make in Vietnam” nghĩa là “làm tại Việt Nam” sẽ hàm nghĩa người Việt Nam chủ động, sáng tạo, thiết kế, tích hợp sản phẩm tại Việt Nam và phát triển, đóng góp vào công nghệ, phát triển cộng đồng công nghệ”.
|
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng: “Make in Vietnam” sẽ là tuyên bố của chúng ta. Doanh nghiệp công nghệ Việt Nam là để “Make in Vietnam”. Nếu chúng ta tiếp tục chỉ lắp ráp thì sẽ không giải được bài toán năng suất lao động và bẫy thu nhập trung bình”. Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2018, ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam có doanh thu ước đạt 98,9 tỷ USD, tăng trưởng 8%. Trong đó, công nghiệp phần cứng-điện tử đạt 88 tỷ USD, công nghiệp phần mềm đạt 4,3 tỷ USD, dịch vụ công nghệ thông tin đạt 5,7 tỷ USD và công nghiệp nội dung số trên 800 triệu USD. Tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành đạt 94 tỷ USD, xuất siêu khoảng 26 tỷ USD. Cũng trong năm này, công nghiệp công nghệ thông tin ước tính đóng góp gần 50.000 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Đến năm 2020, Chính phủ đặt mục tiêu có khoảng 100.000 doanh nghiệp công nghệ, đưa Việt Nam lọt tốp 30 cường quốc về công nghệ thông tin.
|
HẢI ĐĂNG (thực hiện)