Nghệ sĩ Nhân dân LÝ HUỲNH: Điện ảnh cách mạng và bước ngoặt cuộc đời
Thời khắc chiến thắng 30-4-1975 không chỉ có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với cả dân tộc, mà với anh chị em nghệ sĩ sống qua hai chế độ như chúng tôi, đó còn là bước ngoặt quan trọng của sự nghiệp, là niềm cảm hứng vô tận của sáng tạo nghệ thuật. Thời điểm đó, tôi là võ sư nổi tiếng ở Sài Gòn. Tôi từng thượng đài thi đấu quyền Anh, đánh bại nhiều tay đấm nổi tiếng trong làng võ Sài Gòn. Đáng nhớ nhất là trận thượng đài đánh thắng võ sĩ Lyauté Francoise, tay đấm từng vô địch quân đội Pháp. Tôi từng được chính quyền Sài Gòn tôn vinh, khen thưởng vì có thành tích đào tạo nhiều võ sĩ chất lượng cao cho phong trào thi đấu võ thuật, vốn rất được ưa chuộng ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Tôi bén duyên với điện ảnh cũng chính nhờ lợi thế và đam mê võ thuật. Tuy nhiên, những bộ phim tôi tham gia trước năm 1975 chủ yếu nặng về diễn xuất đánh đấm, chưa tạo được dấu ấn đáng kể…
Trước thời khắc Sài Gòn giải phóng, tôi nghe dư luận xôn xao bàn tán rằng, sẽ có một cuộc “tắm máu” khủng khiếp, rằng khi Quân Giải phóng tiếp quản Sài Gòn, khó mà được yên thân. Thực sự lúc đó chúng tôi cũng hoang mang. Tuy nhiên, tôi đã trấn an người thân rằng, mình chỉ hoạt động võ thuật, nghệ thuật, không làm bất cứ điều gì nợ máu với nhân dân nên chính quyền cách mạng sẽ đối xử nhân đạo. Và rồi mọi thứ diễn ra không thể tuyệt vời hơn. Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng, tiếng nói mang thông điệp hòa hợp dân tộc, chung tay kiến thiết xây dựng lại đất nước của chính quyền quân quản vang trên sóng phát thanh. Hàng triệu người dân Sài Gòn đón mừng đất nước thống nhất trong yên bình, hạnh phúc, tự do. Anh chị em văn nghệ sĩ vui sướng nắm tay nhau cùng người dân xuống đường hò reo mừng chiến thắng. Thế là từ đây, một chân trời mới đã mở ra…
    |
 |
Nghệ sĩ Nhân dân Lý Huỳnh. |
Hòa bình, thống nhất là khát vọng, niềm mong mỏi của mọi người dân. Nhưng với một nghệ sĩ như tôi lúc đó, dù có lạc quan đến mấy cũng không thể nghĩ mình sẽ được điện ảnh cách mạng trọng dụng. Vậy mà niềm vui đến thật bất ngờ. Chưa đầy một năm sau ngày giải phóng, tôi được đạo diễn Khương Mễ của Hãng phim Giải phóng mời vào vai Đại tá Hoàng trong phim “Cô Nhíp”. Đây là bước ngoặt lớn trong sự nghiệp diễn xuất của tôi. Vai diễn để lại dấu ấn tốt đẹp, tạo điều kiện cho tôi tiếp tục được những đạo diễn tín nhiệm mời tham gia một loạt phim về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang (CTCM và LLVT) sau đó. Tôi nhận thức rõ trách nhiệm, bổn phận của người nghệ sĩ với đất nước nên cống hiến và lao động nghệ thuật hết mình. Đa số những bộ phim về đề tài CTCM và LLVT tôi được tham gia diễn xuất thời kỳ đó đều là những tác phẩm kinh điển của điện ảnh cách mạng Việt Nam. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao của người nghệ sĩ. Điện ảnh cách mạng tạo bệ đỡ cho tôi phát triển, thành danh trên con đường nghệ thuật. Vừa làm diễn viên, tôi vừa học tập nâng cao trình độ, làm đạo diễn, thành lập hãng phim, đưa dòng phim hành động võ thuật phát triển. Tôi vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Vinh dự to lớn ấy nhắc tôi phải có bổn phận, trách nhiệm cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Nay tôi đã cao tuổi. Sự nghiệp của gia đình giao lại cho các con. Tôi vui mừng và hạnh phúc khi các con của vợ chồng tôi đều đam mê võ thuật và tham gia hoạt động nghệ thuật, nhất là diễn viên điện ảnh Lý Hùng. Hãng phim Lý Huỳnh do tôi sáng lập đã thực hiện nhiều phim về lịch sử, CTCM, các anh hùng dân tộc. Đó là mảng đề tài tâm huyết và cũng là thế mạnh của Hãng phim Lý Huỳnh…
Nhà văn TRẦN VĂN TUẤN: Những vì sao sáng mãi
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi là thượng sĩ, trợ lý theo dõi thương binh tại Bệnh viện dã chiến tiền phương thuộc Cục Hậu cần Miền, đóng quân ở Củ Chi. Tối 29-4-1975, đơn vị tôi tiếp nhận rất nhiều thương binh được chuyển đến từ mặt trận Đồng Dù. Công việc cứu chữa, chăm sóc thương binh hết sức vất vả nên chúng tôi phải thức trắng đêm để thực hiện nhiệm vụ. Dù phải làm việc đến 200% sức lực, nhưng ai cũng quên hết mệt nhọc, linh cảm thấy thời khắc chiến thắng đang đến rất gần.
Sáng 30-4-1975, một không khí khác lạ bao trùm cả không gian. Trên bầu trời không thấy máy bay địch. Đơn vị không có radio nên đến tận trưa, vì sốt ruột chúng tôi phải chạy tới nhà một người dân, để nghe nhờ. Vừa thấy mặt tôi, bác chủ nhà hét lên: “Giải phóng rồi, chúng ta chiến thắng rồi!”.
Tôi chạy ngay về đơn vị, người lâng lâng ngỡ như bàn chân không chạm đất. Mấy anh du kích địa phương sung sướng chĩa súng lên trời bắn liền mấy loạt đạn mừng chiến thắng. Tôi muốn lao ngay vào nội thành Sài Gòn để cùng dòng người hò reo, nhưng vì nhiệm vụ chăm sóc thương binh không thể đi được. Sau khi sơ cứu, phẫu thuật, chúng tôi phối hợp với các lực lượng chuyển thương binh về Sài Gòn chữa trị bằng đường thủy. Mỗi chiếc ghe chỉ chở được 5-6 cáng thương binh nên việc chuyên chở mất khá nhiều thời gian…
Đến ngày 3-5, khi công việc tạm ổn, tôi xin phép chỉ huy đơn vị được vào Sài Gòn với lý do tìm bạn ở đơn vị cũ. Tôi mặc quân phục chỉnh tề, lấy chiếc xe đạp thồ không phanh, không chuông, không gác-đờ-bu, men theo con đường dọc bờ sông Sài Gòn hướng nội đô, đạp như bay. Thời còn chiến đấu ở rừng, tôi tự tin về khả năng xác định tọa độ, “cắt góc phương vị” tìm đường đi. Tôi áp dụng “chiến thuật” này khi lần đầu tiên đặt chân đến Sài Gòn, nhưng không thành công. Đường thành phố không phải vượt đèo, lội suối cho tôi “cắt góc” nên tôi bị lạc. Lẽ thường, nếu đi làm nhiệm vụ mà lạc đường là lo lắng lắm, nhưng lạc giữa Sài Gòn lúc này tôi lại có cảm giác thích thú vô cùng. Tôi rong ruổi khắp phố xá Sài Gòn. Dọc đường, gặp ai tôi cũng nhận được tình cảm trìu mến. Những thanh niên Sài Gòn mặc quần ống loe, để tóc dài, thoạt nhìn tưởng khó gần nhưng lại hết sức thân thiện. Khi tôi gặp được vài người bạn cũ, rủ nhau vào quán uống bia, chủ quán không những không lấy tiền mà còn tặng thêm quà cho bộ đội giải phóng. Tấm lòng người Sài Gòn hào hiệp, phóng khoáng, thật là ấn tượng…
Lâng lâng với cảm xúc chiến thắng, đến sẩm tối tôi mới tìm đường đạp xe về đơn vị. Về đến Củ Chi thì trời đã về khuya. Không gian vắng lặng như tờ. Tôi nằm dài trên bãi cỏ ven sông nghe tiếng đêm hòa nhịp thiên nhiên. Có tiếng cá quẫy, tiếng con tôm búng nước lách tách, tiếng côn trùng hòa tấu râm ran. Chừng như có cả tiếng bung nụ của đám lục bình trôi lững lờ. Bao năm dài chinh chiến, ngỡ thân này đã tan vào đất đai, đâu ngờ có một ngày lại tận hưởng cảm giác thư thái, hạnh phúc đến vô ngần. Tôi nhìn lên bầu trời đầy sao. Mỗi một vì tinh tú lấp lánh trên cao xanh vời vợi ấy là một linh hồn của đồng đội tôi, của đồng bào, chiến sĩ ta đã hy sinh. Những vì sao cứ sáng mãi, sáng mãi, xa xăm trong cõi vô biên nhưng lại thật gần gũi, ngỡ như có thể chạm tay đến được. Nước mắt tôi trào ra. Tôi cứ để yên như thế cho dòng nước mắt tràn lên cỏ, ngấm xuống đất đai thổn thức…
Cái duyên cầm bút của tôi cũng đến từ những xúc cảm thiêng liêng như vậy. 45 năm, đi qua cửa tử chiến tranh và những thăng trầm cuộc sống, tôi nghiệm ra rằng, đất nước hòa bình, giang sơn thống nhất là hồng phúc của muôn dân. Hơn ai hết và hơn lúc nào hết, chúng ta phải biết nâng niu, trân quý từng nhịp thở của cuộc sống hôm nay. Sau gần nửa thế kỷ cầm súng và cầm bút, tôi có được mấy chục đầu sách, một số tác phẩm được giải thưởng trong nước và khu vực. Đa phần các tác phẩm của tôi đều thuộc đề tài CTCM và LLVT. Rất đáng mừng là những năm gần đây, mảng đề tài phong phú này đã có sức sống mới. Bên cạnh những tác giả đã đi qua chiến tranh, thế hệ những người sáng tác trẻ cũng dành sự quan tâm đặc biệt đối với mảng đề tài này. Họ có cách nhìn mới, cách tiếp cận hiện đại phù hợp với nhu cầu cảm thụ văn chương của giới trẻ hôm nay. Nhiều tác phẩm văn chương được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh, phim truyền hình, sân khấu… có chất lượng. Điều này cho thấy, không chỉ giới văn nghệ sĩ mà đại đa số thế hệ trẻ của đất nước đã thể hiện tinh thần yêu nước, trách nhiệm, bổn phận với quốc gia, dân tộc, gìn giữ và phát huy thành quả cách mạng vĩ đại của thế hệ cha anh…
THANH KIM TÙNG (thực hiện)