Áo chàm, áo nâu, áo trấn thủ, quần ống rộng gấu túm lại bởi một chiếc cúc… đó là những trang phục thân quen của cán bộ, chiến sĩ ta trong những năm kháng chiến chống Pháp hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Hậu cần (Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt Nam). Đó cũng là những kỷ vật thiêng liêng đã cùng bộ đội trải qua những năm tháng chiến đấu vô cùng gian khổ mà oai hùng dưới bom đạn quân thù.

leftcenterrightdel

Trang phục sĩ quan K08 góp phần tôn vinh hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.Ảnh: Minh Trường 

Tại Bảo tàng Hậu cần hiện có tới ba khu vực trưng bày, giới thiệu mẫu trang phục của bộ đội qua các thời kỳ như: Kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và những năm đổi mới đến nay. So sánh giữa các thời kỳ mới thấy được quân phục có sự thay đổi rất lớn cùng sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Thuở ban đầu, khi Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời, do hoàn cảnh và điều kiện nên trang phục của 34 đội viên mỗi người một vẻ: Người mặc áo chàm của đồng bào dân tộc, người mặc quần áo nâu, người đi giày, người đi dép… Trang phục không thống nhất nhưng họ đều chung một ý chí, các đội viên đã chiến đấu kiên cường, anh dũng và giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Đến ngày ra mắt tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) năm 1945, các đội viên mới được trang bị đồng phục: Đội viên nam mặc áo sơ mi cộc tay, quần soóc, vạt áo bỏ trong quần, thắt lưng da to bản, giày da thấp cổ, mũ cát màu trắng; đội viên nữ thì áo sơ mi cộc tay, có túi ở ngực, thắt lưng da to bản, quần vải màu đen, gấu túm gọn, đi giày ba ta, mũ rộng vành màu chàm… Trong những năm kháng chiến chống Pháp, có thời điểm, bộ đội ta phải tự túc quần áo nên chưa có sự thống nhất. Miền Bắc và miền Trung thì mặc áo cánh có hai túi, quần buộc túm ống, vải nâu hoặc vải sợi bông (vải si ta), miền Nam thì mặc áo bà ba đen, quần đùi để thích nghi với thời tiết nóng bức và đường sá bùn lầy. Sau này mới được trang bị áo sơ mi hai túi dài tay, có cầu vai, quần âu, ở gấu quần có khuy và khuyết để cài túm gọn gàng, quần áo màu xanh lá cây hoặc màu cỏ úa, mũ cứng cốt giấy ép và giày vải cao cổ màu xanh, đế cao su. Trang phục mùa đông của bộ đội phổ biến là những chiếc áo trấn thủ. Theo tài liệu lưu giữ tại Bảo tàng Hậu cần thì thời kỳ kháng chiến chống Pháp và giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ, do điều kiện khó khăn nên việc cung cấp áo chống rét cho bộ đội là nỗ lực rất lớn của ngành quân nhu. Thực hiện yêu cầu áo phải gọn, tiện sử dụng, chống được rét mà lại tiết kiệm nên áo trấn thủ được may bằng hai mảnh che trước ngực và sau lưng, bên ngoài là vải màu xanh cỏ úa, giữa lót bông may chần hình quả trám. Áo ngắn đến thắt lưng, cổ khoét tròn có ba khuy cài trên vai trái và 5 khuy cài ở mạng sườn trái. Áo trấn thủ mùa đông là một sự sáng tạo đặc biệt của người Việt đã góp phần sưởi ấm bộ đội ta vượt qua các cuộc kháng chiến trường kỳ đến ngày thống nhất.

leftcenterrightdel
Mẫu trang phục của bộ đội ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp trưng bày tại Bảo tàng Hậu cần. 
Tính đến nay, Quân đội ta đã có 4 đợt thay đổi lớn về trang phục, đó là các năm 1958, 1974, 1982, 2008. Qua những lần đổi mới, các quân binh chủng: Hải quân, Lục quân, Phòng không-Không quân… đã từng bước được trang bị quân phục khác nhau từ màu sắc đến quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu. Năm 1982 là mốc đầu tiên trang phục được quy định thống nhất trong toàn quân (K.82) với màu xanh lá cây hay màu cỏ úa. Năm 2008, sự đổi mới quân trang đồng loạt được coi là bước đột phá mạnh mẽ nhất từ xưa tới nay, gồm quân phục các loại, quân hiệu, cấp hiệu phù hiệu, dây lưng, mũ kê-pi. Bộ mẫu này có kế thừa truyền thống nhưng đổi mới cơ bản về chất lượng, kiểu dáng, màu sắc và tiện ích sử dụng, đáp ứng yêu cầu thống nhất, chính quy hiện đại và hội nhập khu vực của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Theo Thượng tá QNCN Trịnh Xuân Trường, Phó trưởng Phòng Quân trang, Viện Nghiên cứu ứng dụng Quân nhu, hiện nay Quân đội ta có tới hàng trăm mẫu sản phẩm của lễ phục, quân phục, quân trang nghiệp vụ dành cho các đối tượng khác nhau: Trang phục thường dùng mùa đông, mùa hè, sĩ quan, chiến sĩ nam, nữ, lễ phục, trang phục dã ngoại, trang phục nghiệp vụ cho từng đối tượng quân binh chủng và các lực lượng đặc nhiệm. Riêng quân trang nghiệp vụ thì có: Trang phục nghi lễ, trang phục nghiệp vụ bay cho phi công, phi công hải quân, thủy thủ tàu ngầm, cảnh sát biển, trang phục biểu diễn nghệ thuật, trang phục phóng viên… Ngoài màu sắc phân biệt giữa các quân binh chủng như: Lục quân màu ô liu, Hải quân màu xanh tím than, Phòng không-Không quân màu xanh sẫm, Cảnh sát biển màu xanh đen… thì quân phục của lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển còn được may chất liệu rất tốt, có tác dụng chống bạc màu để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên biển. Quân phục hiện nay đều được các doanh nghiệp quân đội nước ta sản xuất với chất liệu vải tốt, bền, ấm về mùa đông, mát về mùa hè, gọn gàng hơn trước, tiện sử dụng, rất phù hợp với kích thước, chỉ số hình dáng người Việt cũng như yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn của từng quân binh chủng. Qua nhiều lần đổi mới, quân phục của ta ngày càng được quan tâm đầu tư về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu và các phụ kiện đồng bộ kèm theo, hướng đến tính thẩm mỹ và chính quy, hiện đại hơn. Tuy nhiên, dù là bộ quân phục đơn giản trước đây hay những bộ quân phục sang trọng, lịch sự hiện nay thì trang phục của Bộ đội Cụ Hồ vẫn có một nét đặc thù riêng, thiết thực tiện ích với mọi điều kiện thời tiết, khí hậu và truyền thống văn hóa của người Việt Nam.

Việc mang mặc của bộ đội là một trong những yêu cầu quan trọng, góp phần tôn vinh phẩm chất, tư thế tác phong của quân nhân. Thời gian tới, trang phục của Quân đội ta sẽ còn tiếp tục được cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng, chất liệu, màu sắc để ngày càng hoàn thiện, chính quy, hiện đại hơn theo yêu cầu nhiệm vụ mới.

Bài và ảnh: NGUYỄN HUY