Theo sách “Đại Nam thực lục tiền biên” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ghi chép các sự kiện lịch sử của chúa Nguyễn Đàng Trong, từ đời chúa Nguyễn Hoàng (trị vì từ năm 1558 đến năm 1613) đến hết đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (trị vì từ năm 1765 đến năm 1777), đàn bầu ra đời năm 1770 và người chế ra cây đàn một dây này là Tôn Thất Dục. Các sách “An Nam chí lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa” cũng đề cập tới cây đàn bầu. Trong đó, sự hình thành của cây đàn một dây này được lý giải là lấy cảm hứng từ trò chơi dân gian trống đất của trẻ nhỏ. Trẻ chơi trò này đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập nghe tiếng “bung bung”. Các nghệ nhân xưa có sự quan sát tinh tế và cảm thụ thanh âm nhanh nhạy nên những tiếng kêu “bung bung” từ dây căng kéo trên lỗ đất ấy đã kết tạo ý tưởng hình thành cây đàn làm từ ống tre và quả bầu khô với một dây duy nhất.
    |
 |
Hoa hậu Đỗ Mỹ Linh đã đem cây đàn bầu đến với Cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2017. Ảnh do nhân vật cung cấp. |
Thời nhà Lý, đàn bầu đã được sử dụng phổ biến để đệm cho người hát xẩm, làm thanh bồi cho những khúc ca dân dã của nam thanh nữ tú tuổi tâm tình, của người già khắc khổ trong chuyến hành hương cuộc đời gian nan… Năm 1892, đàn bầu được những người hát xẩm phía Bắc đưa vào xứ Huế để đệm đàn cho một số bộ phận vương quan. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, vua Thành Thái, một trong 3 vị vua yêu nước thời Pháp thuộc, đã yêu tiếng đàn bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam. Đến lúc đó, đàn bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt: Tranh, tỳ, nhị, nguyệt, bầu, giữ vai trò là nhạc khí không thể thiếu trong dàn nhạc cổ truyền dân tộc.
Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, cây đàn bầu cổ truyền đã có nhiều sự thay đổi từ hình dáng đến chất liệu làm đàn; từ tác phẩm đến cách thức trình diễn, kỹ năng chơi đàn, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu thưởng thức âm nhạc của con người Việt Nam hiện đại.
Trong một nghiên cứu về cây đàn bầu, Nghệ sĩ Nhân dân Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho biết, âm thanh của đàn bầu phát ra gần gũi với giọng nói của người Kinh về độ rung, âm vực, luyến láy, có khả năng mô phỏng các cung bậc cao thấp của 6 âm ngữ trong tiếng Việt là: Sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, không. Đó là nhạc cụ của giai điệu, thiên về trữ tình, ngân nga, êm đềm, rất phù hợp với tình cảm nỉ non của người Việt, cho nên trong âm nhạc cổ truyền của người Việt, đàn bầu luôn đóng vai trò bè chính trong các hình thức diễn tấu: Độc tấu, hòa tấu, thậm chí đệm cho hát...
Cây đàn bầu có sự gắn kết đặc biệt với đời sống người Việt. Theo Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Tiến, từ xa xưa, cây đàn bầu đã hiện diện từ khắp các bản làng xa xôi đến các miền quê hẻo lánh. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tiếng đàn bầu thấm đẫm tâm hồn Việt, trở thành máu thịt mỗi người con trên dải đất hình chữ S. Để rồi mỗi khi xa quê, dù bất kỳ ở đâu, khi được nghe tiếng đàn bầu, ta đều thấy lòng mình rộn lên tình cảm sâu nặng với quê hương.
Trên thế giới có không ít cây đàn một dây như: Đàn Kingri, đàn Tuntune của Ấn Độ; đàn Ichigenkin-Nhật Bản, đàn Tushuenkin-Trung Quốc; đàn Orutu ở Kenya và Uganda… Ngay ở Việt Nam cũng có nhiều cây đàn có cấu tạo chỉ một dây, như: Đàn Tàn Máng của người Mường, đàn Rabap Katoh của người Chăm, đàn Kơni của người Gia Rai… Tuy nhiên, đàn bầu độc đáo ở chỗ là cây đàn duy nhất phát ra âm bồi chứ không phải âm thực. Với kỹ thuật uốn cần đàn, làm chùng dây đàn của nghệ sĩ chơi đàn, đàn bầu có thể phát ra nhiều cao độ khác nhau, tạo nên các âm thanh với âm sắc trong trẻo, quyến rũ. Thậm chí, chỉ một lần gảy đàn, đàn bầu có thể phát ra một âm cơ bản hoặc nhiều âm bồi với biên độ cao thấp có thể lên tới một quãng 5. Đặc trưng ngôn ngữ âm nhạc này của đàn bầu, nhìn khắp các nhạc cụ âm nhạc trên thế giới không có nhạc cụ nào có thể làm ra các âm bồi như vậy.
Đàn bầu là một nhạc cụ đặc sắc của Việt Nam, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với đời sống tinh thần của người Việt. Nhằm khẳng định vị thế của cây đàn bầu trong nền văn hóa Việt Nam và thế giới, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đang xây dựng hồ sơ khoa học đề nghị công nhận nhạc cụ này là di sản văn hóa quốc gia, tiến tới đề nghị UNESCO xem xét, công nhận là di sản thế giới. Đây là một việc làm vô cùng cần thiết để có thể làm tốt hơn công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị của đàn bầu. Đồng thời khẳng định lại một lần nữa, cây đàn bầu là của người Việt Nam, từ đó lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
HOÀNG OANH