Là người Việt, ai cũng biết và khâm phục trí tuệ cũng như nghệ thuật dân gian đã góp vào lịch sử tạo hình thế giới một bức họa độc đáo, đặc sắc là bức tranh dân gian Đông Hồ “Trạng Chuột vinh quy” (hay còn gọi là “Đám cưới chuột”). Ngày nay, người ta thấy đấy là một mã nghệ thuật, trong sự giới hạn không gian bức tranh là sự phân phối tuyệt vời các hình tượng để ký gửi tầng lớp các ý nghĩa. Sở dĩ có hai tên gọi bởi đó cũng chính là “chìa khóa mã” mở ra hai lớp ý nghĩa cho biết thân phận (thân thế) nhân vật chính là Chuột (đã đỗ Trạng nguyên) “vinh quy” có “ngựa chàng đi trước, kiệu nàng theo sau” và không gian mã phong tục là “cưới vợ” có cảnh rước dâu, không có âm thanh nhưng người xem như cảm thấy có âm thanh. Chỉ qua những nét vẽ đã thấy tâm trạng nhân vật, cao hơn là thấy cả bản chất một xã hội thời xưa. Mở quyển sách hay là mở ra một thời đại thì với bức họa quý này chỉ nhìn vào cũng thấy thấp thoáng, xôn xao những hình ảnh của quá khứ! Là người Việt, chỉ cần một vốn kiến thức nhất định thì ai cũng hiểu cái ý nghĩa cơ bản của nó.
“Đám cưới chuột” mà lại có con mèo già chiếm cả một khoảng không gian lớn góc phía trên, trang trọng, đầy uy lực, rất kẻ cả, rất bề trên. Lẽ ra, trong không gian náo nức của đám hội “Trạng vinh quy” hay “đám cưới” thì các nhân vật phải vui vẻ, hớn hở nhưng ở đây lại đầy bất an, lo lắng, đầy sự cảnh giác... Người xem hiểu ngay tâm trạng tham nhũng và hối lộ. Những con chuột đi đầu “dâng” đến mèo những thức ăn ngon như bồ câu, cá chép thì mèo cũng không có biểu hiện hành động gì. Nó coi như đấy là chuyện đương nhiên, thường tình. Nhìn cách “ứng xử” này, người ta sẽ đoán mèo sẽ không “vồ” chuột như theo quy luật tự nhiên nữa, mà sẽ để cho “đám vinh quy” (đám cưới) này đi qua. Vì nó đã được “cống” những thứ kia...!!!
 |
Tranh của Văn Thanh (Hà Nội). |
Một thông điệp chống nạn tham nhũng, nạn ăn hối lộ thật tuyệt vời!
Đồng thời cũng cho thấy người dân ngày trước sao mà khổ thế, sao mà thảm hại làm vậy. Bọn quan tham (mèo) thì cứ nhởn nhơ, ngồi để ăn của đút, còn đám dân (chuột), dù có đang trong không gian náo động nhất, vui nhất, thiêng liêng nhất thì vẫn nơm nớp lo sợ bọn cướp ngày!
Ý nghĩa phổ quát bật toát ra: Phải tiêu diệt chế độ cai trị mà kẻ quyền hành giàu có bóc lột, nhũng nhiễu kẻ nghèo, dưới đáy!
Phải chăng còn một lớp ý nghĩa khác: Nếu xã hội còn nạn tham nhũng, hối lộ thì kẻ ăn của đút và kẻ đưa hối lộ sẽ vĩnh viễn không cùng đồng loại. Cả kẻ tham nhũng và kẻ đưa hối lộ sẽ mãi đều là con vật (loài mèo, chuột), trong đó kẻ đưa hối lộ (chuột) tự mình làm hại/nhục mình, tự mình hạ thấp mình trước kẻ tham nhũng có quyền thế (như mèo)!?
Truyện cười “Nhưng nó còn bằng hai mày” đích thực là một “tiếng cười hai chiều” vào bọn quan tham và vào cả những người dân ngu ngốc, dại dột. Chỉ vì một xô xát nhỏ không đâu vào đâu mà hai nông dân Cải và Ngô đưa nhau đến kiện nơi “cửa quan”, mà nghe đồn là người xử kiện giỏi nhất vùng. Truyện này minh họa cho câu “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”. Cải nghĩ “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” bèn đút thầy Lý (người xử kiện) 5 đồng để mong được “xử thắng”. Chốn công đường trang nghiêm, thầy xử đánh Cải 10 roi. Nghĩ “thầy” quên đã nhận tiền, Cải xòe 5 ngón tay phải ý nhắc “thầy” đã đưa 5 đồng và “thầy” đã nói xử phải cho mình. “Quan xử” ngang nhiên xòe 5 ngón tay trái của mình úp lên 5 ngón tay của Cải và nói “Tao biết mày phải. Nhưng nó còn bằng hai mày!”. Thì ra “thầy” đã nhận tiền của Ngô gấp đôi của Cải. Thế nên Cải vừa bị xử “đánh”, vừa bị thua! Đúng là “nén bạc đâm toạc tờ giấy”! Tiếng cười hả hê toát ra hướng về kẻ tham nhũng chỉ biết đến tiền, lấy tiền làm thước đo phải trái. Nhưng cũng là tiếng cười ngậm ngùi đau đớn hướng về những kẻ thấp cổ bé họng. Tiếng cười xoáy sâu vào tâm lý hối lộ, đút lót thảm hại của đám dân nghèo ít học! Cả Ngô và Cải đều thua kẻ vừa có quyền thế, vừa lưu manh, trắng trợn. Như vậy, truyện còn là sự “minh họa” cho câu ca dao: “Nào ngờ cùng tổ bợm già/ Quan tham với lại quan tòa bạn thân!”. Đúng là “quan” tham do dân dại. Dân khôn, hiểu biết thì tự nhiên “quan” phải “liêm”!
Truyện “Sao không bảo tôi tuổi Sửu” lại là một cách kể hiện đại, người đọc phải kết nối hai khoảng thời gian, sự kiện mới thấy bản chất thật của vị quan có bề ngoài rất “liêm” này. Có vị quan huyện luôn tỏ vẻ rất thanh liêm, không ăn đút lót của bất kỳ ai. Ở làng nơi quan sinh ra, muốn nhờ quan bênh cho được kiện, bèn mang lễ vật đến, quan dứt khoát không nhận. Họ tìm cách đút lót “quan bà”. Nói mãi bà cũng nhận lời và mách: “Nhà tôi tuổi Tý. Làng đúc một con chuột bằng bạc, tôi thử cố nói giùm cho, may được chăng”! Được lời như cởi tấm lòng, dân làng về đúc một con chuột cống thật to, bằng bạc đặc... Trông thấy con chuột bạc, ông mới hỏi đâu ra. Bà vợ kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng: “Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi Tý! Sao không bảo tôi tuổi Sửu?”. Truyện dừng lại nhưng tiếng cười thì phá ra: Quan này “liêm” chỉ là cái vỏ, còn bên trong thì toàn tiền bạc cả thôi. Nếu vợ ông mà không ngốc thì bây giờ, ông có cả một con trâu... bạc!!!
Truyện Nôm “Trê Cóc” không tập trung vào chủ đề chống tham nhũng nhưng có những chi tiết nói về “công đường” và nạn đút lót, hối lộ. Truyện có hai nhân vật chính là Trê và Cóc quen thuộc với bất kỳ ai. Cóc sống trên cạn nhưng đẻ trứng dưới nước. Trứng nở ra nòng nọc, Trê nhận là con mình. Cóc kiện lên quan. Vợ Trê chạy vạy tìm đến “thầy luật” Triều Đẩu. Triều Đẩu giới thiệu tới Thông Chiên giỏi hơn. Thông Chiên tìm chứng cứ nòng nọc giống Trê bèn trình quan Cóc vu khống. Bạn Cóc là Ếch giới thiệu “thầy kiện” Nhái Bén... Câu chuyện khoác cái áo ngụ ngôn để che cái thân nội dung sự sống diễn ra dưới thời phong kiến thật sinh động. Đó là cuộc sống của người dân trong những va vấp nảy sinh tranh chấp kiện tụng: “Muốn cho trong ấm ngoài êm/ Phải đưa lễ tốt các phiên mới đành”. Truyện có những cảnh hoạnh họe, đục khoét, hối lộ, “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, bẻ cong, mưu mô, liên kết, thủ đoạn, “tạo hiện trường giả”... Có thể coi truyện như một mô hình của cuộc sống ngày xưa được khúc xạ qua lăng kính văn hóa trào tiếu dân gian với tất cả những gì tươi non, tràn trề trong tính phập phồng, đa dạng. Nhưng cái lõi đậm tinh thần nhân văn nhất của nó vẫn là khát vọng công lý: Ở hiền gặp lành; có ân báo ân; có oán báo oán.
Hình ảnh “công đường” của thời trước được diễn tả “giống như thật” chỉ qua hoạt động của các con vật. Như cảnh “trình diện”: “Mè, Nheo, Trắm, Chép nhảy ra/ Khấn đầu lạy trước quan nha diện trình”; cảnh lo chạy vạy khi thua kiện: “Vợ chồng Trê những ngậm ngùi/ Ra vào phí tổn hết bao cũng đành”; cảnh đi tìm bạn bè mách bảo “thầy cãi”: “Cóc về dạo khắp các nơi/ Qua miền Chẫu Chuộc tới miền Ễnh Ương”... Đúng như cảnh sống thời đó, chỉ khác không phải người mà thay vào đó là hình ảnh những con vật gần gũi. Cóc thắng kiện trở về, cả làng mừng rỡ chia vui: “Tạ từ Cóc trở ra về/ Vợ chồng mừng rỡ đề huề ngổn ngang/ Bước ra khỏi chốn công đường/ Thông Chiên giật lễ, Đề Tôm cướp liền/ Ôm đầu vỗ vễ ngả nghiêng/ Kẻ đòi bầu rượu người xin bao chè”. Cảnh vui vẻ toại nguyện này chẳng khác gì đời sống con người, các hành động chia vui vừa có cái suồng sã, bỗ bã: “Giật lễ”, “cướp liền”, vừa có cái “lịch sự” rất “người”: “Đòi”, “xin”...
Ca dao vẫn là phương tiện thuận lợi nhất để người dân xưa lấy đó làm vũ khí chống lại sự bóc lột tàn tệ của bọn phong kiến. Chúng đục khoét dân lành để xây dựng thành quách nhà cửa: “Vạn Niên là Vạn Niên nào/ Thành xây xương lính hào đào máu dân”. Câu này kết tội vua Tự Đức xây thành Vạn Niên (tức Khiêm Lăng) không chỉ đục khoét tiền bạc mà còn “đục khoét” cả máu, cả sinh mệnh của dân lính. Ca dao vùng Hà Nam lại vạch ra nạn tham nhũng từ những sự việc rất nhỏ: “Trời ơi có thấu tình chăng/ Mấy người đi đẻ mấy thằng ăn no/... Lý Nhưng ơi hỡi Lý Nhưng/ Tưởng là ông, hóa ra thằng ăn dơ”. “Ăn dơ” là “ăn bẩn”. Chuyện là có lý trưởng tên Lý Nhưng (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) rất lạ đời, đục khoét bằng cách “ăn” giấy khai sinh. Ai đến khai sinh phải nộp số tiền gấp 10 lần quy định... Thế là hắn “ăn” của “người đi đẻ”! Kẻ “ăn bẩn” thì thật bần tiện hết chỗ nói. Còn người kể cũng sâu sắc, thâm thúy vô cùng!
Phòng ngừa là phương thức chống tham nhũng từ sớm, giáo dục ý thức khinh ghét tham nhũng chính là phòng ngừa. Chúng ta có sẵn một kho tàng văn học, nghệ thuật dân gian để làm việc đó, nhưng vấn đề là phải có người tâm huyết thường xuyên “giữ và truyền lửa” cho thế hệ trẻ.
PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ