Vùng đất Đông Triều nằm ở vị trí giáp ranh giữa 3 tỉnh Hải Dương, Hải Phòng và Bắc Giang, là nơi hội tụ hồn thiêng sông núi, là nơi vua Trần Nhân Tông đã chọn để tu hành và ngài đã viên tịch tại đây trên một ngọn núi thuộc cánh cung Đông Triều. Nếu ai tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam đều biết rằng, vùng đất này nổi tiếng bởi sự sùng đạo Phật từ lâu đời. Trong sách cổ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, một tác giả thời nhà Trần đã viết rằng: “Đời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ, phật tử… chẳng đâu là không có. Các chùa như chùa Hoàng Giang, chùa Đồng Cổ, chùa An Sinh, chùa An Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh… dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều gần bằng phần nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông Triều, sự sùng thượng lại càng quá lắm. Chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu nơi…”.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đông Triều là một trong những cái nôi của phong trào công nhân và phong trào cách mạng từ rất sớm. Một số cán bộ cách mạng tiền bối của Đảng như Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Văn Cừ đã về khu mỏ than Mạo Khê, vận động lập nên những chi bộ đảng đầu tiên ở vùng than và xây dựng cơ sở cho những hoạt động cách mạng sau này. Đặc biệt thời kỳ chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa, Đông Triều là quê hương của “Đệ tứ chiến khu”, còn gọi là “Chiến khu Trần Hưng Đạo”, tên ban đầu là Chiến khu Đông Triều, một trong những chiến khu được thành lập từ rất sớm, có nhiều chiến công và gắn liền với tên tuổi một vị tướng huyền thoại của Quân đội nhân dân Việt Nam: Trung tướng Nguyễn Bình.
Một góc thị xã Đông Triều hôm nay.
Vùng đất Đông Triều khi đó là địa bàn hoạt động mang những dấu ấn sâu sắc đầu tiên của đồng chí Nguyễn Bình. Khi ông thoát khỏi nhà tù của thực dân Pháp, từ Hải Phòng ông đã sang Đông Triều để gây dựng lực lượng. Dễ hiểu vì sao Đông Triều được Nguyễn Bình chọn, vì đây là vùng đất hiểm trở, vừa có sông sâu, núi cao, có các con đường thủy-bộ tỏa đi khắp nơi, khi cần có thể rút lên núi hoặc thoát ra biển. Đông Triều ngoài lợi thế của phong trào công nhân còn liên quan tới địa thế văn hóa của vùng. Nơi này có rất nhiều chùa miếu lớn, kiên cố, có thể tận dụng làm cơ sở tốt cho hoạt động cách mạng.
Chùa Bắc Mã, một ngôi chùa lớn trong vùng được chọn làm tổng hành dinh của quân khởi nghĩa. Từ ngày Nguyễn Bình về Đông Triều, cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Đài, Trần Cung, Hải Thanh, sư Tuệ… đã tổ chức các hoạt động cách mạng trên địa bàn một cách quy củ và lớn mạnh hẳn lên.
Nhận định thời cơ khởi nghĩa đã chín muồi, việc mua sắm vũ khí và huấn luyện khá tốt. Một ngày đầu tháng 6-1945, Ban lãnh đạo nghĩa quân Đông Triều đã tổ chức cuộc họp quan trọng ở nhà đồng chí Nguyễn Kim Ngọc, người làng Đạm Thủy, để quyết định khởi nghĩa. Kế hoạch đề ra là: Đồn Tràng Bạch và mỏ Mạo Khê do đồng chí Trần Cung phụ trách đánh chiếm. Đồng chí Hải Thanh phối hợp với lực lượng quân phỉ đã được giác ngộ đi theo theo cách mạng đánh đồn Chí Linh. Nhà sư Tuệ sẽ tước vũ khí ở phủ lỵ Kinh Môn. Nhiệm vụ đánh đồn Cao Đông Triều do đích thân đồng chí Nguyễn Bình phụ trách.
Tất cả đã sẵn sàng, đêm 7-6-1945, tất cả lực lượng vũ trang trên địa bàn lần lượt làm lễ xuất kích tại chùa Bắc Mã. Các lực lượng đi theo các hướng phân công và chờ tin thắng lợi. Đồng chí Nguyễn Bình tập hợp 50 chiến sĩ với 4 súng trường, một số lựu đạn cùng dao, kiếm, mã tấu sẵn sàng giải phóng huyện lỵ. Sáng sớm ngày 8-6-1945, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Bình, nghĩa quân tiến về huyện lỵ Đông Triều, đi đầu là lá cờ đỏ sao vàng và tiếp theo là 4 tiểu đội tác chiến. Khi tới huyện lỵ, nhân dân thị trấn đổ ra hoan nghênh nhiệt liệt. Tới ngã tư trung tâm thị trấn, Nguyễn Bình bắn 4 phát súng mở hiệu lệnh tấn công đồn địch. Nghe tiếng súng, ông Nguyễn Hiền (Đội Hiền), là người đã được cách mạng giác ngộ làm nội ứng, ra đón nghĩa quân vào. Quân khởi nghĩa chiếm được đồn với rất ít thương vong và thu được hơn 50 súng và các loại vũ khí của địch. Sau thắng lợi tại thị trấn Đông Triều, nghĩa quân tổ chức mít tinh. Nguyễn Bình đã giải thích cho binh lính và nhân dân về đường lối cứu nước của Việt Minh, tuyên bố giải tán chính quyền tay sai Nhật, kêu gọi mọi người theo Việt Minh chống Nhật. Cùng ngày, khởi nghĩa tại hai địa phương khác là Mạo Khê và Chí Linh đều giành được thắng lợi.
Thắng lợi ngày 8-6-1945 đã mở màn cho một thời kỳ mới, thời kỳ thành lập, xây dựng, mở rộng Chiến khu Đông Triều. Chiều 8-6, trong cuộc mít tinh lớn ở sân đình làng Hổ Lao, Chiến khu Đông Triều chính thức được thành lập, Ủy ban Quân sự ra mắt nhân dân.
Phát huy khí thế chiến thắng, nghĩa quân Chiến khu Đông Triều mở rộng hoạt động sang các vùng lận cận và được đổi tên là Chiến khu Trần Hưng Đạo. Du kích nghĩa quân đã giành được hai thắng lợi quan trọng tại đồn Uông Bí và đồn Bí Chợ. Sau những thắng lợi liên tiếp, Ủy ban Quân sự quyết định tiến đánh tỉnh lỵ Quảng Yên. Trong trận đánh này, đồng chí Nguyễn Bình đóng một vai trò quan trọng. Tối ngày 20-7-1945, đồng chí Nguyễn Bình chỉ huy một đội vũ trang nhỏ bất ngờ đột nhập vào nhà riêng Hai Tiếp - tên Chỉ huy trưởng đồn bảo an Quảng Yên, bắt y nộp vũ khí và ra lệnh cho binh lính đầu hàng Việt Minh. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Bình vào dinh tỉnh trưởng, tuyên bố với nhóm phái viên Đảng Đại Việt đang ở đó rằng: Tất cả binh lính bảo an và lính cơ dinh tuần phủ đã ngả theo Việt Minh!
Tiếp đó, lực lượng khởi nghĩa tuyên bố quản chế Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thanh. Phối hợp với nhân dân địa phương, quân cách mạng đã chiếm đồn bảo an binh, dinh tỉnh trưởng, kho bạc, bưu điện, phá nhà tù, giải phóng cho những người bị giam giữ… Toàn bộ bộ máy chính quyền và quân địch ở đây đầu hàng. Quân khởi nghĩa thu được 500 khẩu súng, một kho đạn và nhiều đồ dùng quân sự khác.
Chiến thắng tại tỉnh lỵ Quảng Yên là thắng lợi lớn và quan trọng nhất của du kích quân Chiến khu Đông Triều cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa. Điều đó chứng tỏ sự lớn mạnh không ngừng của du kích quân, đặc biệt là về khả năng chiến đấu và nghệ thuật chỉ huy quân sự, trong đó có vai trò không nhỏ của Nguyễn Bình. Quảng Yên là tỉnh lỵ đầu tiên trong cả nước được giải phóng trước ngày tổng khởi nghĩa.
Sau chiến thắng tại tỉnh lỵ Quảng Yên, đồng chí Nguyễn Bình chỉ huy lực lượng tiến công phối hợp với nhân dân tại chỗ, tổ chức giành chính quyền ở TP Hải Phòng, tỉnh Kiến An và tỉnh Hải Dương. Từ đó, ông trở thành Tư lệnh của Đệ tứ chiến khu. Sau ngày cách mạng thành công, vào tháng 10-1945, đồng chí Nguyễn Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ vào Nam Bộ với vai trò là phái viên của Trung ương. Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Trung tướng cho đồng chí Nguyễn Bình, cùng đợt phong quân hàm với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một số thiếu tướng khác. Năm 1951, Trung tướng Nguyễn Bình đi công tác bị phục kích và hy sinh trên chiến trường nước bạn. Năm 2000, hài cốt của đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình đã được đồng đội và gia đình quy tập về nghĩa trang liệt sĩ trên quê hương, sau gần nửa thế kỷ nằm bên nước bạn. Để ghi nhớ công lao của đồng chí Trung tướng Nguyễn Bình với đất chiến khu, một đường phố lớn và một trường trung học phổ thông ở huyện Đông Triều đã được mang tên ông. Chùa Bắc Mã, tổng hành dinh của Đệ tứ chiến khu năm xưa, giờ đã được xây dựng lại và trở thành khu lưu niệm phục vụ khách tham quan. Ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, những người già trong làng hiện nay vẫn còn kể cho con cháu nghe những câu chuyện về vị tướng huyền thoại…
Hơn 70 mùa thu đã trôi qua, quê hương Đông Triều - Đệ tứ chiến khu - hôm nay đã có nhiều bước phát triển tột bậc. Từ một huyện nghèo của tỉnh Quảng Ninh chủ yếu dựa vào kinh tế nông nghiệp, năm 2015, Đông Triều đã phát triển thành một thị xã công nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ đã chiếm hơn 60% kinh tế của thị xã. Những sản phẩm công nghiệp nổi tiếng của Đông Triều có thể nhắc đến như: Than đá, điện, gốm, vật liệu xây dựng… thu hút được nhiều lao động trong vùng và các khu vực lân cận. Là vùng đất có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, Đông Triều cũng phát triển mạnh về kinh tế du lịch và phấn đấu trở thành một mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của thị xã. Địa phương có một quần thể di tích nhà Trần phong phú và đa dạng, đặc biệt chùa Ngọa Vân, nơi vua Trần Nhân Tông viên tịch cùng khu lăng mộ các vua Trần đã được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Ngoài ra, thị xã còn có chùa Quỳnh Lâm, quê hương của Bích Động thi xã, một tổ chức thơ văn có trước cả Tao đàn Nhị Thập Bát Tú của vua Lê Thánh Tông. Đền An Biên thờ bà Lê Chân, chùa Bác Mã, các hồ nước ngọt lớn có cảnh quan đẹp thu hút nhiều du khách đến tham quan, kết hợp du lịch tâm linh và nghỉ dưỡng…
Đi theo những con đường nhựa rộng rãi, trải dài trên những cánh đồng lúa tươi tốt nằm cạnh sông Kinh Thầy, sông Đạm Thủy hiền hòa, thấy vùng đất cách mạng năm xưa giờ đã thành một thị xã khang trang, sạch đẹp của vùng Đông Bắc. Cánh cung Đông Triều vẫn cao vút một màu xanh ngằn ngặt của núi rừng. Đường hành hương lên chùa Ngọa Vân, nơi vua Trần Nhân Tông viên tịch, đã được rút ngắn bằng đường cáp treo. Thị trấn Mạo Khê bặm bụi tro than trước đây, bây giờ cũng đã thành một phường của thị xã mới. Bụi than ít đi vì có một băng chuyền hiện đại vận chuyển than trực tiếp từ hầm mỏ ra thẳng cảng sông. Một ngôi chợ lớn có đủ các mặt hàng phục vụ đời sống công nhân mỏ. Thị xã có công viên, bể bơi, các khu đô thị mới, các siêu thị phục vụ nhu cầu đa dạng của người dân. Học sinh các trường trong thị xã ngày càng có nhiều em thi đỗ vào các trường đại học lớn trong cả nước…
Anh Vũ Văn Tuấn, một người bạn học cũ với tôi, bây giờ là Trưởng ban quản lý các di tích trọng điểm của thị xã, cho biết: Không chỉ ở ngoài các khu phố mà các xã phía trong của huyện như: Việt Dân, Bình Khê, Đức Chính, An Sinh… kinh tế nông nghiệp cũng rất phát triển. Đông Triều là một trong những địa phương dẫn đầu cả tỉnh về mô hình xây dựng nông thôn mới. Người dân đã chọn những loại cây, con có hiệu quả cao để phát triển kinh tế gia đình, như: Na nếp, na tẻ, hoa các loại, chăn nuôi bò sữa… Quốc lộ 18A chạy qua thị xã lúc nào cũng nhộn nhịp người xe qua lại. Mảnh đất Đệ tứ chiến khu năm xưa giờ ngát màu xanh non của lúa mới, màu xanh thẫm của núi rừng, điểm thêm những nét sắc lam của bóng những công nhân các nhà máy khi tan ca về. Lại một mùa Thu mới đang về trên vùng đất chiến khu năm xưa với chan hòa nắng gió, những ngôi nhà cao tầng to đẹp, đàng hoàng và những tiếng reo cười của những em thơ háo hức bước vào năm học mới dưới mái trường mang tên danh tướng Nguyễn Bình…
Ghi chép của THẢO NGUYÊN