Trong hệ thống trưng bày của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, phần Thủ đô kháng chiến 60 ngày đêm (19-12-1946/19-2-1947) có hai bài thơ khi đọc lên chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động.
Tác giả hai bài thơ là đồng chí Trịnh Đình Báu, biệt hiệu Lĩnh Nam, bí danh Linh Sơn, sinh năm 1902 ở số 40 phố Mã Mây-Hà Nội. Anh nguyên là cán bộ Đoàn thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu. Từ tháng 9 năm 1946, anh là Chủ tịch Ban chấp hành tự vệ Liên khu I, Ủy viên Ban chấp hành tự vệ thành Hà Nội. Hai bài thơ ra đời giữa Thủ đô khói lửa đêm mồng 5-2-1947, được viết tay bằng bút mực xanh, đỏ, nét chữ rắn rỏi với những chữ hoa bay bổng trên nền giấy kẻ ly. Trải qua 60 năm, tờ giấy đã ố vàng cùng năm tháng nhưng tâm hồn và tình cảm của nhà thơ vẫn vẹn nguyên ngọn lửa yêu nước và lòng căm thù địch sâu sắc. Bài thơ thứ nhất có nhan đề “Toàn dân kháng chiến”, cú những vần hừng hực khí thế chiến đấu, như:
Đã đến lúc cả toàn dân nước Việt,
Đều đứng lên tiêu diệt bọn xâm lăng!
Máu phục thù trong huyết mạch đang căng,
Chí phấn đấu hy sinh và kiên quyết!
Trung – Nam- Bắc
toàn dân đều đoàn kết,
Cả gái, trai, già, trẻ quyết một lòng,
Đem máu đào thề rửa hận non sông,
Tuốt gươm báu nguyện
phá tan quân địch!
……
 |
Bài thơ và thẻ đoàn viên của chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô Trịnh Đình Báu |
Ngày 22-12-1946, Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Chỉ thị ra đời trong tiếng súng đã rền vang các đô thành cả nước. Trịnh Đình Báu vô cùng xúc động. Là người con Hà Nội, vinh dự sinh ra và lớn lên trên đất Thủ đô, anh mang trong tim một ý chí lớn lao của lớp thanh niên trưởng thành trong bão táp cách mạng, sẵn sàng hiến dâng sức trai cho Tổ quốc. Với cương vị là Chủ tịch Ban chấp hành tự vệ Liên khu I, Ủy viên Ban chấp hành tự vệ thành Hà Nội, anh thấu hiểu sâu sắc ý nghĩa trọng đại nghị quyết của Đảng và cố gắng truyền đạt nội dung nghị quyết tới các đơn vị. Nghị quyết Đảng đã thấm sâu vào dòng máu của anh biến thành những dòng thơ cháy bỏng. Bài thơ là tiếng kèn xung trận, kêu gọi nhân dân nhất tề xông lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, tuy gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Bài thơ bộc lộ khát vọng Độc lập - Tự do đã bao đời nay của nhân dân ta. Khát vọng đó đã được Đảng và Bác Hồ khơi dậy và thổi bùng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ngọn lửa của ý chí và nghị lực của cả dân tộc “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” sẽ thiêu cháy quân xâm lược, dù chúng mạnh đến đâu, dù chúng bạo tàn đến mấy.
Bài thơ thứ hai nhan đề: “Thủ đô huyết thệ”, ngùn ngụt tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh:
Đoàn Thủ đô thề xung phong
quyết tử,
Nguyện xả mình,
mong Tổ quốc quyết sinh!
Nên bao lần vì đất nước điêu linh,
Nghe sôi dậy trong tim
dòng máu Việt!
Máu kinh qua Trưng, Lý, Trầnoanh liệt,
Rồi Ngô Quyền, rồi Lê Lợi,
Quang Trung,
Rồi Hoàng Diệu rồi đến
Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám,
những tinh thần bất diệt!..
Máu anh dũng của giống nòi
Nam Việt,
Vẫn lưu truyền muôn vạn kiếp về sau.
Máu sôi lên nhìn sông núi quặn đau!
Chí quật khởi ở ngàn xưa sống lại!
Bài thơ gợi nhớ Tết Đinh Hợi 1947, cái Tết đầu tiên củaTrung đoàn Thủ Đô trong vòng vây địch. Lúc này Trịnh Đình Báu đã cùng đơn vị trải qua hơn một tháng chiến đấu giam chân địch trong thành phố Hà Nội, tạo điều kiện cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. Đồng đội của anh đã bao người ngã xuống trên các chiến hào, khi ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng địch. Anh đã thét lên “Xin thề” quyết tử hoàn thành mọi nhiệm vụ, trong lễ “Quyết tử” tại rạp Tố Như. Tết đến trong tiếng súng, tiếng pháo rền vang, anh đã được đọc những lá thư thắm đượm tình nghĩa quân dân, động viên chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô đang chiến đấu giữa vòng vây địch. Cảm động được đón nhận quà và thư của Bác Hồ, của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ chỉ huy mặt trận và của đồng bào ngoại thành Hà Nội cho Liên khu I. Niềm vui lớn lao nhất, sâu sắc nhất của anh là khi được đón nhận thư của Bác Hồ gửi các chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô. Những lời thư của Bác sao tha thiết làm cháy bỏng con tim của anh: “Các em là đội quyết tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại…”.
Trịnh Đình Báu không phải là nhà thơ nhưng đọc thư Bác xong, anh không tài nào ngủ được. Anh trở dậy châm nến, đọc đi đọc lại đến thuộc lòng từng câu, từng chữ thư của Bác. Nước mắt trào ra không cầm được. Hình ảnh Bác Hồ như sống dậy trong tâm trí. Những lời nói của Người như thôi thúc trái tim anh. Những câu thơ đầu tiên xuất hiện. Anh vội lấy giấy bút ra ghi chép rồi sửa đi sửa lại nhiều lần bài thơ mà vẫn chưa ưng ý vì thấy rằng bài thơ vẫn chưa nói lên được tình cảm sâu nặng và hy vọng chan chứa của Bác gửi gắm ở Trung đoàn Thủ Đô. Bài thơ Thủ đô huyết thệ được đăng trên báo Chiến Thắng xuất bản hằng ngày tại Mặt trận Liên khu I, được anh em đón nhận nồng nhiệt, chuyền tay nhau đọc và học thuộc. Bài thơ còn được nhạc sĩ Lương Ngọc Trác phổ nhạc nên tác dụng càng sâu rộng hơn trong công tác tuyên truyền. Hai bài thơ Toàn dân kháng chiến và Thủ đô huyết thệ được ông gìn giữ qua 9 năm kháng chiến. Khi Bảo tàng Quân đội ra đời, Trịnh Đình Báu đã trân trọng tặng Bảo tàng làm hiện vật truyền thống, cùng với chiếc thẻ Đoàn viên số 16 kích thước 10x14cm, dán tấm ảnh chân dung ghi rõ chức vụ “Liên khu đoàn trưởng thanh niên khu 1, Hà Nội” năm 1946, và chữ ký của đoàn trưởng đóng dấu của Đoàn thanh niên Việt Nam.
Người chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô đã đi suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ và cống hiến trọn đời mình cho cách mạng. Ông qua đời vào tháng 12-1970, nhưng những vần thơ của ông còn âm vang mãi trong lòng người dân Hà Nội và nhân dân cả nước.
ĐOÀN THỊ LỢI