Hình như buổi sơ khai người Việt cổ chưa có thói quen và chưa biết săn bắn mà chủ yếu sinh tồn bằng phương pháp hái lượm. Hái những thứ gì có thể ăn được ở trên cây hoặc lượm những sản vật thấy được trên mặt đất; dần dần mò lặn những sản vật gắn với mặt đất, nhưng có thể lại khuất chìm trong nước, dưới lòng sông, đáy đầm phá, nền các hồ ao... Di chỉ từ hàng vạn năm xưa mà bây giờ chúng ta thấy được, đó là đống vỏ sò trong Động Người Xưa ở vườn rừng quốc gia Cúc Phương, nó cho ta sự suy đoán phù hợp. Bởi vì mảnh đất cha ông ta xưa sinh sống là mênh mông một dải thềm phù sa cổ, cho nên thuở ấy, nguồn sống chính của người Việt cộng sinh là các giống thủy sinh, đa phần lại chỉ là loài nhuyễn thể. Lý do, chúng sinh sản nhanh, di chuyển chậm, dễ kiếm tìm thu lượm, lại có nhiều cách chế biến, sử dụng hết sức giản đơn.
 |
Ảnh minh họa |
Phải chăng vì mang cái gien truyền thống ấy, mà ngày nay hầu hết cư dân đồng bằng Bắc Bộ nơi nào cũng có nét sinh hoạt tương đồng. Cái họ lo chủ yếu cho sự sống, chỉ là tìm cách trồng tỉa thu hoạch lấy củ khoai, hạt lúa, bắp ngô… Đúng vậy, đến bữa, nếu là người ở nhà thì họ ra giàn cắt nửa quả bầu, hoặc vào vườn cắt quả bí xanh; nếu là người đi làm đồng thì khi về thế nào cũng chuẩn bị sẵn mớ rau lang, rau đỗ hoặc nắm rau tập tàng, về rửa sạch cho vào nồi nước, nêm một chút mỡ, một chút muối mắm, thế là có được nồi canh thơm lừng hương vị đồng quê mộc mạc, chan vào vừa mát ruột. Kèm mỗi bát cơm chỉ cần thêm vài quả cà pháo muối xổi hoặc vài con tép đồng kho khô thì đảm bảo khó có bữa tiệc cầu kỳ nào có thể vừa với miệng khách hơn.
Với cách sống như thế hàng nghìn đời nay người nông dân sống trong các làng mạc thôn xóm, hầu như rất ít đổi thay cách ăn uống. Dẫu cho những năm gần đây đổi mới thì cũng chỉ đổi về hình thái nhà cửa, đồ gia dụng, đường làng, ngõ xóm... còn trong sinh hoạt thì làng nào cũng giống làng nào, ấy là những món ăn từ loài thủy sinh nhuyễn thể: trai, hến, trùng trục, ốc nhồi, ốc vặn, ốc bươu... Những thứ này, hiện nay không chỉ làng quê, mà cư dân thành thị còn coi chúng vào hàng đặc sản. Mỗi ngày có hàng vạn thực khách có nhu cầu và hàng triệu nhân sinh sống bằng công việc mò lặn, bắt vét, bán buôn chế biến... Thực khách mua về chỉ việc ngâm một lát trong nước sạch cho chúng nhả hết cặn bã, rồi rửa sạch, cho vào xoong, không cho nước, chỉ cho thêm chút muối, chúng sẽ há miệng tự tiết ra nước, lát sau nhặt hết ruột trai, hến, trùng trục lấy nước nóng làm vệ sinh sạch sẽ, con nào ruột lớn quá thì thái nhỏ cho đều nhau.
Cuối cùng, đổ vào nồi nước luộc chín sẽ màu hơi đục lờ lờ; nếu là mùa nhót thì cho thêm mươi quả nhót, nếu là mùa khế thì cho vài quả khế chua tách múi, cộng với hành, răm, thìa là, mắm muối, rồi tùy theo lượng người ăn mà pha thêm nhiều ít nước đun sôi. Điều cần lưu ý, trước khi đổ thịt trai hến vào nồi, phải xào với mỡ và hành củ thái nhỏ cho thật nổi vị... khi đã đun thật kỹ là ta đã được nồi canh trai chua chua, dìu dịu lại man mát, thơm thơm. Mỗi miếng cơm chan canh, cắn một chút cà đậm, mặn, giòn, thơm ngon khiến người xa quê cứ phải nao lòng mỗi khi nhớ đến.
LÊ THU