Cách nay hơn nửa thế kỷ, nhà thơ Tố Hữu đã dẫn hai danh ngôn nổi tiếng của hai danh nhân thế giới, làm đề từ mở đầu bài thơ “Bài ca Xuân 71”:
Gớt-tơ: Phải hành động!
Lênin: Nên ước mơ...
Cần nhớ thêm rằng, “Xuân 71” là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn vô cùng quyết liệt. Trong hoàn cảnh ấy, nhà thơ-nhà quản lý văn nghệ của Đảng-vẫn lưu ý quân và dân ta về quan điểm “nên ước mơ” của lãnh tụ Lênin vĩ đại. Bởi vì ước mơ là một trạng thái tinh thần hết sức cần thiết và quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân và rộng lớn hơn là mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc.
|
|
Các nghệ sĩ tặng thiết bị y tế hỗ trợ Bộ đội Biên phòng làm nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 (tháng 3-2020). Ảnh: HÒA NGUYỄN |
Cao hơn ước mơ là khát vọng. Đó là mơ ước đạt được những điều lớn lao, tốt đẹp trong cuộc sống. Khi con người có khát khao mãnh liệt, nó sẽ là động lực thôi thúc con người nỗ lực phấn đấu để làm được, đạt được điều mơ ước đó. Bởi vậy, khát vọng là một trong những giá trị con người cần phải có, là biểu hiện mang yếu tố tích cực của mỗi con người. Nói cách khác, khát vọng là một chỉ dấu giá trị của CON NGƯỜI. Ước mơ và khát vọng chân chính của mỗi cá nhân luôn hài hòa với ước mơ và khát vọng của cộng đồng, của dân tộc và xu thế của thời đại. Đó là những ước mơ và khát vọng lớn. Làm người chân chính phải có ước mơ và khát vọng lớn, đặc biệt là với tuổi trẻ. Bác Hồ dạy: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Mùa xuân là biểu tượng của tươi non phát triển, tràn trề nhựa sống. Tuổi trẻ phải có hoài bão lớn, phải khát khao cống hiến và khát vọng vươn lên, đồng hành với khát vọng của dân tộc, bởi vì tuổi trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước.
Ước mơ và khát vọng là tâm lý bẩm sinh của con người. Nhưng những ước mơ tích cực, những khát vọng lớn lao, hài hòa với ước mơ và khát vọng của dân tộc và xu thế của thời đại thì phải được ươm trồng và vun đắp thông qua giáo dục, rèn luyện. Trong đó, ươm trồng và vun đắp bằng tác động của văn học, nghệ thuật là phương thức giáo dục, rèn luyện hết sức quan trọng và hiệu quả. Bởi con đường nhận thức ngắn nhất là đi từ trái tim đến với trái tim. Thông qua sự cảm nhận và rung động sâu sắc trước những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, với những ước mơ tích cực và khát vọng lớn lao, công chúng sẽ tự hình thành, ấp ủ và nuôi dưỡng những khát vọng mãnh liệt và dấn thân thực hiện khát vọng ấy. Lẽ dĩ nhiên, để có được hiệu quả nghệ thuật đó, các văn nghệ sĩ-những người sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu-cũng phải mang trong mình những hoài bão tiến bộ, những khát vọng tích cực, đại diện cho khát vọng của xã hội và dân tộc.
Trong đêm trường nô lệ và những năm tháng đất nước bị giày xéo dưới gót giày quân xâm lược, khát vọng lớn nhất của dân tộc ta là độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đông đảo văn nghệ sĩ thuộc nhiều thế hệ và xu hướng nghệ thuật đã giác ngộ cách mạng, hăng hái tham gia kháng chiến, góp phần thực hiện khát vọng độc lập, tự do và hòa bình, thống nhất của dân tộc. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bên cạnh thế hệ văn nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, một thế hệ văn nghệ sĩ trẻ vừa “lớn lên trong mùa cách mạng” đã hăng hái tham gia công cuộc “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (thơ Tố Hữu). Họ lên đường với nhiệt huyết tuổi trẻ và tinh thần lạc quan cách mạng. Họ “Vào mặt trận khi mùa ve đang kêu/ Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ/ Có ai biết trong ba lô không có/ Một, hai, ba... giọng chú ve kim” (thơ Hoàng Nhuận Cầm). Họ xác định: “Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?” (thơ Thanh Thảo). Vì thế với họ “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (thơ Phạm Tiến Duật) và giữa chiến trường “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” (thơ Hữu Thỉnh)...
Tinh thần dấn thân là nét nổi bật của đội ngũ văn nghệ sĩ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Họ là những con đẻ của cách mạng, lớn lên trong hào khí cách mạng, nên từ nhận thức cuộc sống đến quan điểm nghệ thuật là rõ ràng dứt khoát. Họ xác định phải phản ánh trung thực và sinh động cuộc sống mà mình đang ký thác toàn bộ cuộc đời mình trong đó. Tinh thần dấn thân ấy cộng hưởng với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là nền tảng để cảm hứng công dân thăng hoa. Đó là tâm huyết phổ biến của một thời, một thế hệ. Rất nhiều văn nghệ sĩ thế hệ ấy đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế của người chiến sĩ, như: Vũ Đình Văn, Nguyễn Mỹ, Chu Cẩm Phong, Lê Anh Xuân... Cuộc đời họ mãi mãi tuổi hai mươi và tác phẩm của họ trường tồn trong kho tàng văn hóa của dân tộc. Rất nhiều văn nghệ sĩ thuộc thế hệ ấy trở về từ chiến trường, tiếp tục tu dưỡng, học tập và sáng tạo, trở thành những văn nghệ sĩ nổi tiếng của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Nhiều người trong số họ trở thành những nhà quản lý văn nghệ và tư tưởng-văn hóa có uy tín.
Sự nghiệp kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã kết thúc hơn 45 năm. Công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong môi trường toàn cầu hóa và cơ chế thị trường của đất nước ta hôm nay đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những hệ lụy, thách thức. Khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam ngày nay là “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Nội dung này được nhắc đến nhiều lần trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta, thể hiện quyết tâm chính trị lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhằm “phấn đấu để đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hơn lúc nào hết, Tổ quốc và nhân dân đòi hỏi đội ngũ văn nghệ sĩ tiếp tục đồng hành với dân tộc trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn; tiếp tục sáng tạo nên những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, góp phần “khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nêu.
Gắn bó với sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới đã có bước phát triển đột phá về tư duy nghệ thuật, không ngừng mở rộng về đề tài, chủ đề, phương pháp sáng tác, nhiệt thành đề cao, biểu dương những nhân tố mới, những tấm gương lao động và chiến đấu dũng cảm quên mình vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đồng thời, văn học, nghệ thuật thời kỳ đổi mới đã mạnh mẽ phê phán, lên án mọi cái xấu, cái ác, biểu hiện tha hóa, biến chất, suy thoái về tư tưởng và đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nền tảng tinh thần của đất nước. Đặc biệt, văn học, nghệ thuật hiện nay được bổ sung thêm một lớp văn nghệ sĩ trẻ được sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới. Đó là một thế hệ năng động, sáng tạo, đem lại sinh khí và nhiều mới mẻ cho đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà. Họ là đội ngũ kế tiếp thực hiện sứ mệnh người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Để thực hiện sứ mệnh thiêng liêng cao cả trên, vấn đề tiên quyết không ai có thể làm thay cho đội ngũ văn nghệ sĩ trẻ, ấy là sự nỗ lực tự thân, tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện nhân cách và tài năng; chấp nhận sự hy sinh, đơn độc nghiệt ngã của lao động sáng tạo nghệ thuật, cảnh giác trước những thủ đoạn của âm mưu “diễn biến hòa bình” và những quan điểm lệch lạc trong văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên, cùng với sự nỗ lực tự thân ấy, vai trò của xã hội và đặc biệt của các ngành chức năng, của các cơ quan quản lý tư tưởng-văn hóa là những yếu tố hết sức quan trọng.
“Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là một KHÁT VỌNG LỚN của dân tộc, chất chứa tinh thần lãng mạn và niềm lạc quan cách mạng. Khát vọng ấy có cơ sở từ thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là từ những thành tựu to lớn của 35 năm sự nghiệp đổi mới đất nước. Sự nghiệp ấy đang cường tráng sức xuân, như tuổi trẻ phơi phới lạc quan, tràn trề sức sống và mãnh liệt khát vọng, trong đó có đội ngũ các văn nghệ sĩ trẻ dồi dào sáng tạo...
TUYÊN HÓA