Công việc cầm bút vẽ đã và đang dần bị mai một. Một số lĩnh vực như vẽ truyền thần, vẽ quảng cáo bằng phương pháp thủ công… đã gần như biến mất ở các đô thị…

Thời hoàng kim

30 năm trước, tôi là học viên Lớp Mỹ thuật Daxuco, do Tập đoàn Daxuco Hồng Lĩnh mở tại TP Vinh, Nghệ Tĩnh (nay là Nghệ An), đào tạo thợ làm tranh đá xuất khẩu. Thầy dạy hội họa cho chúng tôi ngày ấy là các họa sĩ của Xưởng Mỹ thuật Nghệ Tĩnh, Hội Văn học nghệ thuật và Trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh. Xưởng mỹ thuật là nơi quy tụ nhiều họa sĩ nổi tiếng, trong đó có những họa sĩ là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, như: Đào Phương, Hùng Lương, Phùng Tôn, Tiêu Cao Sơn, Trọng Hiệp, Trần Khánh, Đình Chiến… Phòng ở của các họa sĩ, chỉ chừa đủ không gian kê chiếc giường, còn lại là ngập tràn giá vẽ, bút, bột màu, sơn dầu… Công việc của các họa sĩ tấp nập quanh năm, nhất là vào các dịp lễ, Tết hoặc các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và địa phương. Vào những dịp cao điểm, họ làm việc thâu đêm, kẻ vẽ pa-nô, áp phích, tranh cổ động… Mỗi năm mấy đợt, từng nhóm họa sĩ hoặc cá nhân lại tổ chức triển lãm tranh. Công việc mang lại nguồn thu nhập chính của các họa sĩ là những hợp đồng kẻ, vẽ quảng cáo, vẽ truyền thần. Những họa sĩ có “thương hiệu”, các đơn đặt hàng kẻ, vẽ biển quảng cáo dày đặc. Họ đem về những hợp đồng của khách hàng, vẽ phác thảo rồi sẻ chia cho các đồng nghiệp cùng làm. Nhiều học viên của lớp mỹ thuật chúng tôi ngày ấy được các thầy chọn phụ việc khi có những hợp đồng lớn. Đất nước vừa xóa bỏ bao cấp, trong lúc đồng lương của cán bộ, công nhân viên chức rất bấp bênh, đời sống vô cùng khó khăn, thì nghề vẽ lại mang đến cho các họa sĩ, thợ vẽ nguồn thu nhập khá. Vì thế, họ sống khá “xông xênh”. Dọc các con phố ở khu trung tâm thành phố, các ki-ốt vẽ truyền thần, quảng cáo mọc lên như nấm.

Người có thu nhập tốt nhất trong cộng đồng thợ vẽ ở TP Vinh lúc bấy giờ là ông Văn Ba, nhà ở gần cổng chợ Vinh. Dù không qua trường lớp chuyên nghiệp nhưng kỹ năng kẻ, vẽ bảng hiệu của Văn Ba lại rất nổi trội. Ông mở cửa hàng mỹ thuật, làm việc như một “công xưởng”, mời nhiều họa sĩ đến cộng tác. Ước chừng có đến 40% thị phần bảng hiệu quảng cáo ở TP Vinh lúc bấy giờ là sản phẩm từ cửa hàng của ông Ba.

leftcenterrightdel
Đường Trần Phú (quận 5, TP Hồ Chí Minh) san sát phòng tranh nhưng khách hàng chỉ lác đác. Ảnh: THANH KIM TÙNG 
Năm 1996, tôi vào Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh và gắn bó với mảnh đất phương Nam từ đó. Lúc bấy giờ, dọc các con đường lớn ở khu trung tâm thành phố như Điện Biên Phủ, 3-2, Trần Phú, Bùi Viện… nhan nhản các phòng tranh, ki-ốt của thợ vẽ. TP Hồ Chí Minh là thị trường lớn của nghề vẽ. Rất nhiều người làm nghề từ các địa phương miền Bắc, miền Trung đã chọn TP Hồ Chí Minh làm điểm đến lập nghiệp, hình thành nên những khu phố tranh, con đường tranh nức tiếng một thời. Bà Minh Hiếu, quê ở Ninh Bình, chủ một phòng tranh trên đường Trần Phú, quận 5, cho hay, gia đình bà có nghề vẽ cha truyền con nối. Hơn 20 năm trước, vợ chồng bà dắt díu nhau vào TP Hồ Chí Minh, thuê mặt bằng mở phòng tranh. “Nghề của chúng tôi là chép tranh và vẽ tranh phong cảnh bằng sơn dầu. Chúng tôi làm ăn rất thuận lợi, chỉ mấy năm đã tích lũy mua được nhà, nuôi các con ăn học. Mấy năm gần đây, tình hình ngày càng khó khăn vì giá thuê mặt bằng cao ngất ngưởng, trong khi tranh bán rất chậm. Nhiều người đã phải bỏ nghề. Chúng tôi còn giữ nghề là bởi niềm đam mê máu thịt, vả lại tuổi cũng đã cao, muốn tìm nghề khác mưu sinh cũng chẳng dễ dàng gì…”-bà nói.

Con đường Trần Phú, tính từ ngã tư Trần Phú-Lê Hồng Phong về hướng quận 1, chỉ hơn 1km nhưng có đến mấy chục phòng tranh, nằm san sát nhau. Đa số các chủ phòng tranh ở “con đường tranh” này đều là người quê ở Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội… vào lập nghiệp từ 20-30 năm trước.

Cuộc “sát hạch” khắc nghiệt

Tâm tư của bà Minh Hiếu cũng là nỗi trăn trở của những người làm nghề vẽ thời công nghệ số. Có mặt ở “con đường tranh” Trần Phú vào tối thứ 7, các phòng tranh rực rỡ ánh đèn và sắc màu của các loại tranh, nhưng chúng tôi thấy khách hàng rất ít. Thỉnh thoảng có một vài người vào ngó nghiêng rồi… đi ra. Anh Lê Trần Dương, quê ở Nho Quan, Ninh Bình, chủ một phòng tranh ở đây, nói:

- Thời hoàng kim của nghề vẽ truyền thống qua rồi. Bây giờ thị trường mỹ thuật đa phần đều là sản phẩm công nghệ số. Không gian sống của cư dân đô thị ngày càng chật hẹp, thay vì chơi tranh truyền thống, người ta dùng giấy dán tường, in tranh 3D nên người mua tranh ngày càng ít.

Theo giới trong nghề, để hoàn thành một bức tranh kích thước 80x120cm bằng chất liệu sơn dầu, mỗi thợ vẽ phải mất 2-3 ngày. Giá bán một bức tranh như vậy hiện dao động từ 800.000 đồng đến 1 triệu đồng, nhưng rất khó bán. Tính ra tiền công của thợ vẽ tối đa chỉ được 200.000 đồng/ngày. Người chọn công việc này phần lớn là để thỏa niềm đam mê hoặc sinh viên trường mỹ thuật đi làm thêm…

Nguyễn Hoài Linh, một họa sĩ chuyên thiết kế bảng hiệu quảng cáo ở quận 3, chia sẻ: “Nếu như trước đây, các họa sĩ phải trần mình phơi nắng để vẽ những bức pa-nô quảng cáo thì bây giờ, tất cả đều đã được số hóa. Người làm nghề thiết kế bảng hiệu quảng cáo hiện nay chỉ cần có kỹ năng đồ họa và phương tiện máy móc là đủ. Các mẫu thiết kế có đầy trên mạng. Chỉ cần tải xuống, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng rồi in ra là xong. Muốn kích thước bao nhiêu cũng có. Từ sản phẩm in trực tiếp trên vải bạt đến chữ mi-ca, hộp đèn… đều được số hóa. Thời gian hoàn thành sản phẩm rất nhanh".

Không chỉ ở lĩnh vực quảng cáo, việc sáng tác tranh cổ động cũng đều số hóa. Họa sĩ chỉ việc sáng tác trên máy tính bằng phương pháp đồ họa rồi in hàng loạt. Các cuộc triển lãm tranh cổ động nhân các ngày lễ lớn ở TP Hồ Chí Minh vừa qua cũng đều là sản phẩm công nghệ số. Họa sĩ Phan Quốc Bình (Nghệ An), người có gần 50 năm theo nghề vẽ truyền thống, tâm sự: “Cái đẹp của hội họa là sự thổi hồn của họa sĩ vào từng nét vẽ, mảng màu, tạo nên những bức tranh có chiều sâu nội tâm, thể hiện nét riêng của người vẽ. Tranh cổ động “sản xuất” theo công nghệ số rất nhanh chóng, tiện lợi, nhưng thiếu hẳn điều đó”.

Thực trạng trên phần nào lý giải, vì sao các trường mỹ thuật hiện khá khó khăn trong tuyển sinh đầu vào. Điểm chuẩn vào chuyên ngành hội họa của Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh năm 2017 là 20,5-thấp hơn rất nhiều so với các ngành nghề khác. Số lượng sinh viên chọn nghề hội họa khá khiêm tốn.

Công nghệ số lên ngôi làm biến mất hàng loạt cửa hàng, ki-ốt hội họa. Đội ngũ họa sĩ, thợ vẽ hoặc phải tiếp cận nhanh với công nghệ mới để thích ứng, hoặc phải chuyển nghề. Họa sĩ Đoàn Việt Tiến (ngụ tại quận 12, TP Hồ Chí Minh), một tên tuổi nổi tiếng về tranh sơn dầu, từng có nhiều cuộc triển lãm cá nhân được công chúng đánh giá cao từ hơn một thập niên trước, nay cũng chỉ còn cầm cọ “cho khỏi nhớ nghề”, bởi “không ai có thể chỉ hít thở không khí bên giá vẽ được”. Vậy nên những con đường dập dìu thợ vẽ truyền thần, quảng cáo… ngày xưa, giờ vắng bóng, thay vào đó là những cơ sở in ấn, thiết kế mỹ thuật bằng công nghệ số.

Dù vậy, đâu đó trong sự ồn ào, náo nhiệt của thời kỳ số hóa, công chúng vẫn bắt gặp một vài hình ảnh hiếm hoi của nghề cầm cọ thủ công. Lão họa sĩ Nguyễn Thế Minh (nghệ danh Hoài Minh Phương), ngụ ở đường An Dương Vương, quận Bình Tân, là một trường hợp đặc biệt như vậy. Theo nghề vẽ hơn 40 năm nay, trải qua bao thăng trầm biến cố của cuộc sống, nay đã ở tuổi “cổ lai hy” nhưng ông vẫn trung thành với phấn màu, com-pa, thước kẻ, cọ, bột màu, sơn dầu… Hằng ngày ông cần mẫn còng lưng bên giá vẽ để thực hiện những đơn đặt hàng “cỏn con” mà theo ông là vì mọi người thương mình nên mới không tìm đến những cơ sở in ấn hiện đại. Bàn tay gầy gò, gân guốc của ông tỉ mẩn tạo khung chữ, đo bố cục, vẽ họa tiết cho các tác phẩm của mình. Ông được coi là người cuối cùng ở TP Hồ Chí Minh vẽ bảng, biển quảng cáo bằng phương pháp “rặt” thủ công…

Dù có ít sức hút với giới trẻ nhưng niềm đam mê cầm cọ và sức mê hoặc của màu sắc vẫn là hấp lực đối với một bộ phận trí thức. Các lớp vẽ tranh của những họa sĩ tên tuổi vẫn luôn có học viên đến ghi danh. Nữ bác sĩ Lan Hương, nguyên cán bộ của Trung tâm Truyền thông sức khỏe-Sở Y tế TP Hồ Chí Minh, là một “tín đồ” của hội họa. “Sau khi nghỉ hưu, có điều kiện giao lưu với những người bạn họa sĩ, tôi ngấm lửa đam mê lúc nào không hay. Tôi quyết định đi học vẽ. Mới đầu rất khó khăn do mình đã lớn tuổi, nhưng qua mấy năm học nghề, mọi thứ giờ đã ổn. Thế giới của đường nét, màu sắc thật huyền diệu. Càng học, càng vẽ, mình càng khám phá được vẻ đẹp bao la của thế giới nội tâm con người thông qua ngôn ngữ hội họa"-bác sĩ Lan Hương tâm sự.

Những người như bác sĩ Lan Hương tìm đến với niềm đam mê cầm cọ đều chung một sở thích được khám phá bản thân và thỏa chí đam mê chứ không coi đó là công việc mưu sinh. Thế nên chuyện “tuổi già học vẽ, tuổi trẻ ngó lơ” như nhiều người nói vui, là do hoàn cảnh sống chi phối. Được cầm cọ là thú vui tao nhã. Nghề vẽ là nghề làm đẹp cho cuộc sống. Mà đã là cái đẹp thì nó không bao giờ mất đi. Công nghệ có hiện đại bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể làm thay con người. “Đừng hốt hoảng và lo lắng khi thấy giới trẻ ít quan tâm đến nghề vẽ truyền thống. Sau những bươn chải mưu sinh, đến lúc nào đó, người ta sẽ sống trọn với niềm đam mê của mình. Vẽ cũng như làm thơ vậy. Không ai sống được bằng thơ nhưng đời sống xã hội từ cổ chí kim chả lúc nào thiếu thơ ca, nhạc họa được”-bác sĩ Lan Hương cảm thán.

PHAN TÙNG SƠN