 |
Minh hoạ: Ngọc Anh |
Tôi làm nghề chữa đồng hồ ở phố huyện này đã mấy năm nay, nhờ nghề cho nên tôi có chút lưng vốn. Hàng xóm của tôi là một phụ nữ, bán hàng tạp hóa. Chị ta đông khách lắm, hàng bán rất chạy. Đã luống tuổi và vẫn sống độc thân. Quán chúng tôi chung vách với nhau; thế nhưng bọn tôi sống rất có mức độ. Nghĩa là không thân lắm mà cũng không sơ. Có người hàng xóm như vậy nên tôi không lo ngại gì vì từ trước đến nay không có gì phải nghi kỵ nhau. Nhiều hôm có việc đi đâu, chúng tôi hay gửi quán cho nhau trông hộ; có lẽ vì thế chúng tôi có phần chủ quan; cái vách quán trát bằng rơm đất có chỗ đã thủng, lẽ ra phải chữa lại nhưng tôi cứ để mặc. Đang buôn bán phát đạt, đột nhiên chị hàng xóm trả lại quán cho nhà chủ rồi bỏ đi. Chả ai biết chị ta đi đâu, cơ chế thị trường, quán lại ở mặt phố chính, chị ta đi có rất nhiều người đến hỏi thuê quán; lúc thì thợ chữa đài, rồi lại một chủ thợ đồ điện. Có tý quán mà cứ rối mù cả lên. Với tôi, ai thuê quán ấy đều được. Vì tôi chả mất gì, cốt họ sống thoải mái biết điều là được. Thế rồi có ông thợ may từ đâu đến thuê. Đó là hàng xóm mới của tôi; thợ chữa đồng hồ ở cạnh thợ may chả ai tranh khách của nhau, không khéo nhiều lúc còn làm lợi cho nhau. Mấy hôm hiệu may chưa chuyển về, tôi cứ tưởng tượng ra một ông chủ hiệu may ở cạnh tôi sẽ là giàu có, có bàn may xịn, tủ đứng có gương đẹp, vải vóc nhiều. Nghĩ mà thương hại vì quán nhỏ chả biết để những thứ ấy vào đâu. Hôm ông thợ may chuyển đến; chiếc xe ba gác chở hàng do người kéo; tôi nhìn thấy số tài sản: một chiếc bàn cắt may kiêm luôn tủ đựng, ở gầm. Chiếc máy khâu cổ lỗ và một vài thứ linh tinh khác. Ông chủ hiệu chừng hơn 60 tuổi, không ăn diện, dáng đi tập tễnh; người như bị lệch một bên. Ông có biển hiệu treo đằng trước quán hấp dẫn. Biển viết:
May áo quần như ý; đúng mốt, hợp thời trang
Mở cửa hiệu đã mấy hôm mà chả thấy ông treo vải quần áo gì. Một ngày cuối thu đẹp trời, ông đang ngồi đọc báo. Một thanh niên ăn mặc lịch sự vào hiệu nhờ ông cắt cho một bộ áo quần. Sau vài câu chuyện, ngắm anh thanh niên một lúc, ông nói:
- Áo anh bạn trẻ hết bằng này vải, quần hết bằng này. Anh bạn ra chợ mua loại nào ưng ý đưa vào đây (vì quán tôi không trữ vải).
Người thanh niên ngạc nhiên hỏi:
- Bác đã đo đâu mà bảo mua vải. Bác chủ quan thế, khi lấy áo quần nếu bị hỏng thì sao?
Ông thợ may cười nói:
- Anh bạn trẻ cứ yên tâm mà mua vải, nếu may hỏng, may không vừa ý thì tôi sẽ đền. Cùng lắm là tôi thế cái máy khâu này là được chứ gì? Nào có vui không và có dám liều không?
Ngồi trong hiệu, tôi nghe được cuộc đối thoại ấy và tự nghĩ: đây là một cuộc biểu diễn tay nghề hay còn là trò gì khác nữa. Anh thanh niên được những lời khích lệ của ông thợ may kỳ quặc; hay là họ cùng hội? Không! Anh thanh niên hình như dân ở đây, tôi hơi quen.
Anh thanh niên ra chợ một lúc, quay lại đưa vải cho ông thợ may rồi cầm mảnh giấy hẹn ngày lấy quần áo. Ông thợ may còn tiễn chân người thanh niên ra về. Mấy hôm sau, anh thanh niên ấy đến lấy áo quần. Ông thợ may đưa ra trả và bảo:
- Anh bạn mặc thử, chả biết tôi có phải mất máy khâu không đấy?
Thử xong áo quần, người thanh niên có vẻ ưng ý lắm. Khách và chủ cười nói vui vẻ.
Có lẽ việc biểu diễn tay nghề của ông thợ may đã thắng lợi; mấy hôm sau có rất nhiều khách đến để may áo quần: toàn thanh niên và học sinh lớn; có mấy anh chàng cứ bắt ông ta đừng có đo mà cứ cắt may; ông cười giải thích: có người không cần đo mà vẫn cắt được chuẩn vì dáng người họ dễ ước ra số đo: chiều cao, vòng ngực, vòng bụng, vòng mông. Còn đa số phải đo cẩn thận mới cắt được. Từ đó, ông thợ may làm việc miệt mài có hôm đến 10-11 giờ đêm mà nhiều lúc còn lỡ hẹn với khách; những lúc ấy không biết ông ta nói với khách thế nào mà khách đều vui vẻ ra về. Những việc làm của ông ấy tôi cho là bày trò câu khách lấy lòng buổi đầu và biết đâu đây lại là một anh chị càn quấy từ đâu dạt về. Nghĩ thế nên tôi bắt đầu đề phòng với ông. Lúc rỗi việc, có nhiều lần ông ta làm quen bắt chuyện với tôi; tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Tôi xưng hô với ông là: ông và tôi. Về tuổi đời, ít ra ông cũng phải gấp rưỡi tuổi tôi. Tôi xưng hô với ông như vậy, ông ta không có biểu hiện gì mà còn nói với tôi:
- Tôi với anh bạn là quan trọng với nhau lắm đấy nhá, các cụ đã nói rồi: “Thứ nhất cận lân, thứ nhì cận thân” cơ mà. Nên chúng ta phải biết vì nhau, giúp nhau đấy nhá.
Ông nói thế, tôi cho là dạy đời và tôi bỏ ngoài tai. Tôi tự nghĩ, không dại gì mà chơi với lão. Biết đâu rồi tôi lại nuôi ong tay áo và tự nhiên tôi gán cho ông: con người không hâm thì cũng gàn dở. Nghề thợ may mấy tháng cuối năm phải nói là rất lắm việc vì ai cũng phải may áo quần chuẩn bị cho một cái Tết. Thế mà đầu tháng chạp ông ta đã treo bảng: “Nhà may thôi nhận hàng, xin quý khách vui lòng”. Sau mấy hôm treo bảng, có nhiều người khách đến tha thiết nhờ ông cắt may, ông từ chối rất khéo nên ai cũng nể. Mới khoảng đôi mươi tháng chạp, ông đã xách đầu máy khâu đi gửi để về quê ăn Tết. Tôi quyết định tranh thủ lúc này để sửa lại vách quán. Ván đã mua sẵn, chỉ chờ tìm được người là sửa. Đang định đi tìm người thì may sao có chú em kết nghĩa tên là Lộc biết làm nghề mộc võ vẽ, chả biết nó đi đâu ghé vào chơi. Thế là hắn ta bị tôi bắt cóc làm thợ. Mọi thứ đã chuẩn bị xong để sáng mai là bắt đầu. Chiều hôm ấy khi ăn cơm, Lộc hỏi tôi:
- Quán ai đây mà đóng cửa sớm thế anh? Hay quán bỏ không? Hoài thế, không ai thuê à?
Tôi nói với nó:
- Nào có phải bỏ không; chủ của nó là ông thợ may đã nghỉ về quê ăn Tết.
Lộc hỏi chen vào:
- Sao thợ may lại nghỉ sớm thế; cuối năm hái ra tiền, họ làm ngày làm đêm cơ mà?
- Đấy! Cái số của tao thế nào ấy. Giá còn chị Hòa bán hàng tạp hóa như trước thì có phải hơn không, giờ vớ được ông thợ may nửa hâm nửa hấp. Tao đang chán ngấy về ông ta, phải nhờ mày sửa quán, đề phòng ra Giêng ông ấy lên là vì thế.
- Ông ta làm sao, anh thử nói xem nào? Lộc hỏi tôi. Tôi được dịp trút cái chán về ông thợ may cho nó:
- Mày có biết không; tên ông ta là Kinh hay Kiên gì đó. Đã nghèo rớt mà còn làm ra vẻ tốt bụng, từ bi.
- Thế là thế nào, nói đi xem nào? Cứ vòng vo mãi.
- Thì mày cứ từ từ nghe tao nói. Là thợ may mà tài sản chả có gì! Ăn uống thì kham khổ, chỉ rau, đậu phụ. Thỉnh thoảng mới có một tí thịt cá. Tối đến mới uống một chén con rượu. Nói thật, bữa cơm của ông ta, tao không tài nào nuốt nổi! Chả biết vợ con đâu mà để cho ông sống một mình như vậy. Thế này nữa mới chán chứ mày. Một lần có chị phụ nữ đem áo quần cũ của chồng đến để ông ấy cắt theo mẫu. Phải nói chị ta là người đàn bà đẹp; nước da trắng, cười rất tươi. Hôm trả tiền áo quần, ông ta chỉ lấy vài nghìn đồng gọi là tiền chỉ. Chồng chị ấy không đi cắt được vì nhà xa, lại là thương binh. Ông ấy làm thế, tao cho là anh chàng có “máu nóng” lấy lòng phụ nữ. Lần nữa, có một ông khách đến lấy áo quần. Khi về, đi được một quãng xa, ông ấy tập tễnh chạy ra đường gọi rối rít bảo người khách quay lại. Thì ra, lúc trả tiền công may, người khách trả thừa mấy nghìn bạc mà không biết. Ông khách xin lại tiền, bắt tay cảm ơn rồi về. Chưa hết, còn chuyện này nữa, một ông bộ đội chả biết đi từ thời nào, hình như thời chống Pháp, nay đã già chết. Biết tin ông ấy đóng quán bỏ đi hơn một ngày vào trong xóm, xong đám ma mới về. Ông ấy đi là để phục dịch, phúng viếng đám ma. Người ta chết có con cháu, họ hàng, bà con thân thích, ai cần gì đến ông thợ may quèn.
Nghe tôi nói xong, Lộc hỏi tôi:
- Bác ta chừng hơn 60 tuổi. Đi tập tễnh, người như bị lệch chứ gì?
Tôi đáp:
- Đúng rồi! Mày biết ông ta à?
Lộc kêu lên:
- Trời! Bác Kiên, con người thép đấy anh ạ.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại nó:
- Mày nói cái gì mà thép với sắt!
Lộc sốt sắng kể cho nghe về lai lịch của ông:
- Anh không biết đấy thôi, bác ta là một chiến sĩ trinh sát thời chống Mỹ, chiến đấu trong miền Nam, bị địch bắt được, phải đi qua mấy nhà tù. Bọn Mỹ-ngụy tra tấn đủ thứ đòn. Nó đánh bác gẫy 2 xương sườn, bị nhiễm trùng, phải cắt bỏ đi; ống chân bác nó đập cho gẫy rồi bó qua loa, xương bị lệch. Không khai thác được gì, bọn địch đày bác ra Côn Đảo cùng bao chiến sĩ khác. Mỹ thua, khi trao trả tù binh, bác được bệnh viện quân đội điều trị mấy năm mới khỏi rồi bác được về quê, hưởng chế độ thương binh. Bác có 3 người con, hai anh đầu là bộ đội cũng là sĩ quan. Chị út đang dạy học. Kinh tế nhà bác khá giả lắm. Bác gái làm ruộng, còn bác làm nghề thợ may. Tay nghề của bác siêu lắm đấy.
Tôi hỏi chen vào: “Sao mày biết rõ thế? Hay mày phịa?”.
- Em biết, vì bác là bạn chiến đấu của bố em. Nghe anh kể, em đoán ra ngay vì tháng trước bố em bảo hình như bác đến vùng này làm ăn. Hai người thỉnh thoảng vẫn có thư cho nhau. Bác đã đến nhà em một lần. Bố em hay lấy gương nhà bác để khuyên bọn em. Cuối đời, khi thấy không cần phải lam lũ, bác bàn với bác gái, đưa máy khâu đi làm ăn cho biết đó biết đây và cũng là để tìm thăm đồng đội. Đi đâu gặp người nghèo hay thương binh, bệnh binh, bác quý lắm và hay giúp đỡ. Sống như thế nên bác được nhiều người quý mến.
Tôi cướp lời Lộc nói chen vào:
- Nếu đúng con người như thế, ai mà chả quý.
Lộc kể thêm một số chuyện nữa về bác. Tôi nghe mà cảm thấy mình có lỗi nhiều quá. Lộc kể xong, tôi nói với nó:
- Cái tồi tệ của tao là đánh giá con người theo cái mẽ bên ngoài và hay lấy tiền bạc làm đồng cân, vì thế chả coi ai ra gì. Với bác Kiên, tao thật là quá đáng. Chả biết ra Giêng, bao giờ bác ấy lại lên mà chả biết bác có chấp với tao không?
Thấy tôi có vẻ buồn, Lộc nói:
- Bác ấy sống thoải mái, độ lượng, chắc không chấp anh đâu! Mà có chấp với anh thì chấp cả đời!
Sớm dậy, Lộc lôi ván ra để sửa quán cho tôi. Tôi nói với nó:
- Thôi không cần sửa nữa mày!
Nó ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh? Thế ván này bây giờ làm gì. Thừa à anh?
Tôi mắng nó:
- Thôi đi ông tướng ạ, chỉ được cái láu!
Nó lại cười nói: “Em làm thuê cho anh không đắt rồi! Cảm ơn thôi!”.
Thị trấn Phù Yên-Sơn La
Truyện ngắn của NGUYỄN BÁ HÙNG