QĐND - Trải qua hàng nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, chúng ta có chịu ảnh hưởng về tư tưởng, về giáo dục, về văn hóa, nghệ thuật… của họ nhưng dứt khoát không bị đồng hóa. Riêng về lĩnh vực ngôn ngữ, không những không bị đồng hóa mà cha ông ta còn Việt hóa một số lượng khá lớn từ gốc Hán và cùng với việc những từ thuần Việt không những không mai một mà vẫn phát triển theo thời gian, đã làm cho tiếng Việt ngày càng  phong phú, tinh tế, linh hoạt, biểu cảm… hơn. Một trong những người góp công lớn cho sự phát triển tiếng Việt chính là Đại thi hào Nguyễn Du. Đi sâu tìm hiểu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào điều đó.

Cụ Đào Duy Anh trong công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều có một nhận xét rất xác đáng: “Thời Lê mạt, ta có những tác phẩm có giá trị như: Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Phan Trần truyện, Hoa Tiên ký… viết bằng quốc âm, nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức”.

Theo khảo sát thì Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng hơn 70% từ thuần Việt. Nhưng số lượng từ dùng nhiều hay ít chưa nói lên điều gì mà cơ bản là việc sử dụng những từ ngữ đó như thế nào vào công việc sáng tác. Người ta đã nói nhiều về cách dùng từ láy, hư từ, thán từ, từ đồng âm, từ đồng nghĩa, hoán dụ, ẩn dụ, nhân hóa, cường điệu, song đối, cách chơi chữ hết sức tài tình của Nguyễn Du… Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt, đôi khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; Thoắt trông nhờn nhợt màu da; Tường đông đã thấy Sở Khanh lẻn vào) v.v.. Chỉ riêng với việc sử dụng chữ “tôi”, Nguyễn Du cũng đã là bậc kỳ tài, là người đi trước thời đại.  Bởi vì vào thời đó, những tác phẩm viết bằng chữ Nôm có giá trị như: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Phan Trần truyện, Hoa Tiên ký… chưa có tác phẩm nào sử dụng chữ “tôi” theo nghĩa đại từ nhân xưng như Nguyễn Du cả. Có người đã bàn đến chữ “mùi” trong câu: Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình nhưng chỉ loanh quanh giải thích chữ “mùi” đi với chữ “hương” để tạo ra mùi hương thơm tho, thanh khiết mà quên mất chữ “mùi” ở câu thơ này được ghép với chữ “nhớ”. Nguyễn Du là người đầu tiên mang đến cho ngôn ngữ Việt Nam cái mùi hết sức khác lạ: “mùi nhớ”. Đây là một cách nói hết sức hiện đại. Với cách dùng từ hiện đại kiểu như “mùi nhớ”, “lá gió”, “cành chim”… Đại thi hào đã góp phần đưa ngôn ngữ dân tộc lên một tầm cao mới. Đó chính là điều mà “các hạng thượng lưu trí thức” đương thời hết sức nể phục.

Thiếu nhi huyện Nghi Xuân-Hà Tĩnh “tập Kiều” trong lễ kỷ niệm 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh: THẠCH SƠN

Riêng gần 30% từ gốc Hán được sử dụng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng lựa chọn những từ đã được Việt hóa. Đó là những từ người “bình dân” vẫn dùng trong giao tiếp hằng ngày, như: Xuân, hoa, hồn, tâm, tài, mệnh… nên họ dễ tiếp nhận. Trong đó, các từ “hoa”, từ “xuân” được Nguyễn Du dùng khá nhiều lần (từ hoa 132 lần, từ xuân 55 lần). Với từ “hoa”: Khi thì dùng để gọi các loại hoa theo nghĩa gốc thông thường (Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông); khi thì dùng để ám chỉ người đàn bà đài các nhưng đã hết thời (Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa); khi thì dùng để chỉ người tình cũ (Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình)… Với từ “xuân”: Khi thì nhà thơ dùng nghĩa gốc (Sầu dài, ngày ngắn đông đà sang xuân); khi thì dùng để chỉ tuổi trẻ (Ngày xuân em hãy còn dài); khi thì dùng để chỉ người đẹp (Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai) v.v..

Theo tôi, chữ “hoa” trong các câu: “Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa”; “Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn”; “Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình”; “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”… là những chữ rất đặc biệt. Vì chữ “hoa” ở đây đã được Nguyễn Du dùng với nghĩa ẩn dụ. Thật đáng thán phục cách ghép từ “lệ hoa” trong câu: “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. “Thềm hoa” thì cũng như “đuốc hoa”, “bút hoa”, “kiệu hoa”… là cách lắp ghép thông thường. “Lệ hoa” mới là cách lắp ghép cao thủ của Nguyễn Du. Tả nàng Kiều khóc một mình trong đêm vắng không khó lắm (Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu). Tả nàng Kiều khóc nhưng phải giữ được vẻ đẹp để Mã Giám Sinh “cân sắc, cân tài” trong hoàn cảnh trớ trêu này mới khó. Lòng Kiều đang tan nát nhưng ngoài mặt phải  cố giữ cho được sắc đẹp. “Nét buồn” cũng phải như hoa cúc, “điệu gầy” cũng phải như nhành mai. Cho nên nước mắt của nàng Kiều không là “giọt lệ” hay “giọt hồng” mà là “lệ hoa”.

Trong tất cả những chữ “xuân” mà Nguyễn Du dùng theo nghĩa ẩn dụ, có hai trường hợp thật đặc sắc. Trường hợp thứ nhất là câu nhà thơ mượn ý của Đỗ Mục trong bài Xích Bích hoài cổ để  cho chàng Kim Trọng “tán” vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân trong lần đầu gặp gỡ: “Một nền Đồng Tước khóa xuân hai kiều”. Mặc dù mượn ý thơ Đỗ Mục nhưng cách dùng từ “xuân” của Nguyễn Du có khác, đa nghĩa hơn, mới mẻ hơn, hiện đại hơn. Trường hợp thứ hai là khi diễn tả cái chết đột ngột của nàng Đạm Tiên, Nguyễn Du viết: “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Đại thi hào là người đầu tiên ghép chữ “xuân” vào “nửa chừng” và tạo ra cách ngắt nhịp hết sức bất ngờ mới lạ đối với thể thơ lục bát 3-1-4: “Nửa chừng xuân/ thoắt/ gãy cành thiên hương” để diễn tả cái chết bất ngờ của cô gái trẻ đẹp.

So với các từ “hoa”, “xuân” thì từ “hồn” ít được Nguyễn Du dùng hơn (chỉ 15 lần) nhưng cách sử dụng của ông cũng hết sức biến hóa, hết sức tài tình. Chữ “hồn” trong các câu: “Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai”; “Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên”; “Nào hồn tinh vệ biết đâu mà lần”; “Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu”… là Nguyễn Du dùng với nghĩa thông thường, chỉ cần chú giải một vài điển tích, điển cố là người đọc hiểu được. Cái độc đáo của chữ “hồn” là trong các câu: “Cạn lời hồn dứt máu say”; “Sinh càng nát ruột tan hồn”; “Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao”… Hồn là một khái niệm trừu tượng, vào tay thiên tài Nguyễn Du trở nên hết sức cụ thể. Hồn “dứt” như con suối đứt mạch, hồn “tan” như chiếc bình tan vỡ, hồn không phải lìa khỏi xác mà lìa khỏi giấc chiêm bao…

Chính nhờ thiên tài sử dụng ngôn ngữ như trên mà tác phẩm Truyện Kiều được người đọc từ thế hệ này đến thế hệ khác say mê, ngưỡng mộ.

Nhà thơ, nhà giáo MAI VĂN HOAN