Nguyễn Du đã “đoạt thai hoán cốt” (chữ của Đào Duy Anh-người đầu tiên dùng thuật ngữ này ở Việt Nam) Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân rồi tái sinh nó trong thể loại truyện thơ lục bát độc đáo, thể loại giàu khả năng diễn đạt và rất dễ phổ cập ở Việt Nam, tạo nên một kiệt tác là Truyện Kiều, cuốn tiểu thuyết bằng thơ Nôm lục bát độc nhất vô nhị! Từ đó, Nguyễn Du với tiếng Việt giống như là Puskin với tiếng Nga, Goethe với tiếng Đức, Dante với tiếng Ý, Shakespeare với tiếng Anh, như Homere đối với văn hóa Địa Trung Hải. Nguyễn Du trở thành thi hào của chúng ta là vì vậy.

Bây giờ, ta hãy nghe, ở Việt Nam và Trung Hoa-hai nước liên quan trực tiếp đến Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện-các nhà nghiên cứu nhận định như thế nào về hai tác phẩm này.

Đào Duy Anh viết: “Nguyễn Du giữ nguyên sự tích của tiểu thuyết Tàu, hầu như không thêm bớt chút gì”, “Song nguyên văn (nguyên tác?) thì tự thuật rườm rà, tỉ mỉ, kết cấu theo một trật tự dễ dàng (dễ dãi?) đơn giản, mà Nguyễn Du thì châm chước và sắp đặt lại thành một tổ chức có giàn giã chặt chịa, có mạch lạc khít khao”, “Nguyên văn (nguyên tác?) thì tự thuật rất tỉ mỉ mà khô khan, chú ý đến những chi tiết không quan hệ và hay tả thực những cảnh tượng dễ kích động tai mắt người ta. Nguyễn Du thì tự sự rất vắn tắt, gọn gàng, chỉ kể những việc quan trọng, mà vừa tự nhiên vừa nghị luận, khiến văn luôn có hứng thú. Phàm những đoạn mô tả duy thực thô bỉ, những đoạn thuyết lý dông dài, ông đều bỏ cả, lại chú ý đặc biệt về sự tả tình và tả cảnh... Về tính tình các nhân vật, thì những người trong Kim Vân Kiều truyện vốn là những người gần với sự thực, những người ta có thể tin rằng đã từng sống ở nước Tàu đồng thời với Kim, Vân, Kiều. Nguyễn Du tuy không tả thực, nhưng lại là một tay tâm lý học sành, nên đã biến hóa những người ấy thành những người không riêng gì của nước Tàu bấy giờ mà chung cả mọi đời mọi xứ. Ta có thể nói rằng, Nguyễn Du đã lý tưởng hóa (nghệ thuật hóa?) các nhân vật thành những nhân vật điển hình vậy”.

Minh họa: THÁI AN.

Hoài Thanh nói thêm: “Những con người của Thanh Tâm tài nhân chỉ là những bộ xương. Nguyễn Du đã biến những bộ xương thành những con người thực. Nguyễn Du đã biến thành yêu, ghét, giận, hờn cái điều ở Thanh Tâm tài nhân chỉ là ý yêu, ý ghét, ý giận, ý hờn. Nguyễn Du đã truyền sức sống vào trong bức vẽ”.

Nguyễn Lộc cũng viết: “Nguyễn Du đã bỏ đi những chi tiết kể lể dài dòng, những đoạn miêu tả có tính chất tự nhiên chủ nghĩa, nhiều khi thô bỉ, có hại đối với mỹ cảm của người đọc và không nhằm phục vụ cho chủ đề của tác phẩm. Đồng thời nhà thơ thêm vào đó rất nhiều đoạn tả cảnh, tả tình, nhằm nêu rõ tính cách và tâm trạng nhân vật. Ngay cả khi Nguyễn Du giữ lại những tình tiết cũ của Thanh Tâm tài nhân, thì đó cũng không phải là giữ lại nguyên vẹn, không có sáng tạo. Cả trong những trường hợp này, Nguyễn Du đều có cảm lại, nhận thức lại, sắp xếp lại, nghĩa là Nguyễn Du chỉ giữ lại những gì phù hợp với những điều trông thấy, từng trải của mình và thể hiện nó bằng một ngòi bút tràn đầy cảm xúc của một nhà thơ chân chính” v.v..

Còn ở Trung Hoa, Đổng Văn Thành lại phê phán Nguyễn Du rằng, Nguyễn Du có lập trường phong kiến chính thống, hạ thấp Từ Hải vì đã lược tả uy thế quân sự của Từ Hải, vốn được nguyên tác tả tỉ mỉ qua trận đánh giữa Từ Hải với quan quân triều đình, bằng bút pháp khoa trương! Nhà nghiên cứu này cũng phê phán Nguyễn Du hay khoe kiến thức văn học uyên bác nhưng “mắc sai lầm chồng chất”, vận dụng không đúng, chẳng hạn như khi miêu tả tiếng đàn Kiều gảy cho Kim Trọng nghe trong buổi gặp gỡ đầu tiên, Nguyễn Du đã kể tên bốn khúc nhạc cổ, trong đó không một khúc nào biểu hiện nỗi lòng của người thiếu nữ đang yêu! v.v..

Bây giờ, thử nhìn rộng hơn ra xem sao!

Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm tài nhân viết ở cuối thế kỷ 17-đầu thế kỷ 18, là một tiểu thuyết chương hồi (20 hồi), kể về một nàng Vương Thúy Kiều có thật trong lịch sử Trung Hoa. Trước Thanh Tâm tài nhân, chuyện nàng Vương Thúy Kiều ấy đã được nhiều nhà viết sử ký, truyện ký, hý kịch Trung Hoa khai thác hàng trăm năm, tính từ nửa sau thế kỷ 16.

Vương Thúy Kiều thật, vốn là một trong hai ái cơ-hầu gái-ca kỹ của Từ Hải, một tướng cướp (lãnh tụ khởi nghĩa nông dân?) vùng Chiết Giang thời Gia Tĩnh nhà Minh.

Theo nhà nghiên cứu Trung Hoa Trần Ích Nguyên, thì trước Thanh Tâm tài nhân, ở Trung Hoa đã có Vương Kiều nhi truyện của Từ Học Mô (1552-1593) và sau đó, còn có thêm 3 tiểu thuyết-truyện ký cùng 3 hý khúc và nhiều vở truyền kỳ khác về Vương Thúy Kiều. Trần Ích Nguyên viết: “Từ truyền thuyết trong tư liệu lịch sử đến tiểu thuyết, hý khúc, chúng ta thấy việc hình thành nên truyện Vương Thúy Kiều chủ yếu bắt đầu từ truyền thuyết dân gian. Các văn nhân đã dựa vào những truyền thuyết dân gian có thể chứng thực bằng tư liệu lịch sử mà ghi chép lại, đồng thời có cải biên và sáng tạo thêm, thế là sản sinh ra một lượng lớn tác phẩm tiểu thuyết và hý khúc, khiến cho hình tượng nhân vật Vương Thúy Kiều không ngừng được đầy đặn thêm”. Nhà nghiên cứu này cũng nhận định về Kim Vân Kiều truyện như sau: “Toàn bộ cuốn truyện, thông qua hai lần vào nhà chứa, ba lần hoàn lương, mười mấy năm khổ hạnh giày vò, đã hết sức tinh tế để cho Vương Thúy Kiều, theo những biến đổi của đời sống hiện thực, mà không ngừng làm phong phú và phát triển tính cách cực kỳ nhẫn nại của mình, hình thành trọn vẹn một hình tượng nữ tính hơn hẳn người cùng lứa, đả phá căn bệnh chung của tiểu thuyết thông tục là loại hình hóa nhân vật... Nghệ thuật miêu tả cao minh nhường ấy, không nghi ngờ gì nữa, là sự đột phá quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, vì thế, truyện có ảnh hưởng không nhỏ. Ngoài Thụ Hổ khẩu, Hổ phách chủy đầu đời Thanh ra, truyền kỳ Song Thúy viên của Hạ Bỉnh Hoành giữa đời Thanh cũng là được cải biên từ Kim Vân Kiều truyện. Thậm chí, một phần nội dung trong Lục dã tiên tung của Lý Bách Xuyên, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần cũng có thể được Kim Vân Kiều truyện gợi mở” (theo Trần Ích Nguyên-Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều, Phạm Tú Châu dịch, NXB Lao động, 2004).

Thế tức là ở Trung Hoa, vì thấy Kim Vân Kiều truyện hay nên nhiều người, nhiều đời đã “đoạt thai hoán cốt” nó để sinh ra các tác phẩm khác. Nó không thể tầm thường!

Sau đó, năm 1763, Kim Vân Kiều truyện được dịch ra tiếng Nhật (Thông tục Kim Kiều truyện) và được cải biên thành tiểu thuyết Nhật (Phong tục Kim ngư truyện).

Đầu thế kỷ 19, nhà Trung Quốc và Mãn Châu học người Nga A.Vladykin (1761-1811)-một người đương thời với Nguyễn Du-đã dịch Kim Vân Kiều truyện từ bản tiếng Mãn Châu sang tiếng Nga nhưng chưa được xuất bản và hiện còn đang được lưu trữ tại Viện Đông Phương học Saint Petersburg (theo Truyện Kiều khảo-chú-bình của Trần Nho Thìn và Nguyễn Tuấn Cường, NXB Giáo dục, 2007).

Nhìn rộng ra thế để thấy, từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân đã được dịch ra tiếng Nhật, tiếng Mãn, tiếng Nga và còn được “cải biên” và vì thế, nó cũng không thể tầm thường, kể cả trong những nhìn nhận “ngoại Trung Hoa”.

Trước những tranh luận nói ở phần trên, tôi thấy:

Không có “nguyên tác” thì không bao giờ có “phóng tác” hay “chuyển thể”! Không có Kim Vân Kiều truyện thì không ai có thể “đoạt thai hoán cốt” nó để có Truyện Kiều được! Nếu “nguyên tác” không hay, không được người “phóng tác”-“chuyển thể” yêu thích, thì chẳng ai bỏ công ra để làm việc ấy, chưa kể rằng, làm một cách cực kỳ thành công như Nguyễn Du đã làm. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân không thể vốn là “phàm thai tục cốt” được! Vả lại, chính Nguyễn Du, mở đầu Truyện Kiều, đã chả viết: “... Cảo thơm lần giở trước đèn/ Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh...” đó sao? Cảo thơm và truyền sử xanh kia mà!

Bây giờ, bàn thêm ra mấy ví dụ xa:

Thứ nhất, không có những người đi kể miệng thần thoại Hy Lạp khắp các thành bang Địa Trung Hải xưa, lấy gì cho Homere “đoạt thai hoán cốt” để có Iliad Odyssey?

Thứ hai, không có những người đi kể chuyện Tam quốc rong ở Trung Hoa bao đời, sao La Quán Trung có thể “đoạt thai hoán cốt” mà có Tam quốc diễn nghĩa?

Thứ ba, chính Shakespeare đã “đoạt thai hoán cốt” chuyện chàng Romeo và nàng Juliet mãi từ tít nước Ý, để tạo nên vở kịch Anh “kinh điển”, “cổ điển” của mình.

Thứ tư, không có Kinh thánh, lấy đâu ra việc Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raffaello de Santi... “đoạt thai hoán cốt” để có các bức họa trứ danh theo các đề tài trong Kinh thánh? v.v.. và v.v..

                                                                                          *

                                                                                       *     *

Thế thì, việc “đoạt thai hoán cốt” trong văn chương-nghệ thuật xưa nay vốn là việc thông thường. Những người giỏi thì “thành tiên”, những kẻ kém thì “thành tục”, thậm chí thành kẻ “đạo văn”!

Trở lại với Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện!

Ta phải đánh giá cao tiểu thuyết kia của Thanh Tâm tài nhân, vì Nguyễn Du đã yêu nó, thích nó, “đoạt thai hoán cốt” nó! Chỉ cần nói rõ thêm, Nguyễn Du là một “đạo sĩ” cao tay nhất Việt Nam trong việc “đoạt thai hoán cốt” văn chương là được. Từ sau ông đến nay, không có ai làm được cho truyện-tiểu thuyết bằng thơ lục bát tiếng Việt hay hơn!

Nếu đã gọi Hồ Xuân Hương là “Bà Chúa thơ Nôm”, thì danh hiệu “Ông Hoàng thơ Nôm” lại quá bé nhỏ so với Nguyễn Du. Không! Ông là một thiên tài vô đối trong văn chương tiếng Việt (Nôm) cổ kim!

Cao Bá Quát, một nhà thơ kiệt xuất, cả Hán lẫn Nôm, người chỉ “nhường” cho thiên hạ một bồ trong 4 bồ chữ có trên đời, người chẳng coi Tự Đức-ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn-ra gì, nói rất ngắn: “Hoa Tiên răn người, Truyện Kiều hiểu người”.

Răn người là giáo huấn và phổ biến kinh nghiệm sống, hiểu người mới là tri kỷ, mới là thấu mọi ái, ố, nộ, hỷ, ai, lạc, dục của kiếp người, từ cộng đồng đến từng cá thể.

Đành rằng, phải hiểu đời thì mới có thể răn người, nhưng từ chỗ hiểu đời-răn người đến chỗ hiểu người như Nguyễn Du viết và Cao Bá Quát phải bỏ cả cao ngạo mà nói như thế, là đã rất hiện đại... từ lâu! Nó bỏ lại sau lưng mọi hệ tư tưởng chính thống-giáo điều vốn có. Có lẽ , lý luận-phê bình ta nên bắt đầu lại từ chỗ hiểu người, chứ không thể cứ mãi bắt đầu từ những cái “gốc” khác được.

Ở Trung Hoa, Hồ Thích viết: “Nhạc phủ xuất tự dân gian, đến Lý Bạch thì bay lên trời”. Nay ta cũng có thể nói: “Lục bát Nôm xuất tự dân gian, đến Nguyễn Du thì bay lên trời”.

Nhà thơ ĐỖ TRUNG LAI