Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ những bài viết chân thực, đầy ắp hơi thở chiến trường khi đó như: "Chuyện ghi ở đại đội phía trước", "Vệt mờ trên cò súng"... Cuối năm 1981, khi tình hình chiến sự lắng xuống, tôi được điều động về Phòng biên tập Thời sự quốc tế, vừa làm phóng viên, vừa làm biên tập viên. Sau một thời gian không lâu, tôi được giao viết những bài bình luận ngắn về thời sự quốc tế. Phải mất gần 10 năm rèn luyện, tôi mới bắt đầu được nhìn nhận như một cây bút có thiên hướng chính luận.

Quãng thời gian gần 30 năm làm việc tại Báo QĐND là thời gian vô cùng quý giá để cho tôi rèn tay bút ở mảng chính luận, mà chủ yếu là bình luận về các sự kiện chấn động trên thế giới, các vấn đề đối ngoại của Việt Nam ở những thời điểm rất phức tạp, gay go, nhạy cảm. Đó là thử thách, cũng là may mắn lớn nhất trong cuộc đời làm báo của tôi!

Ngày 16-1-1991, khi Báo QĐND đăng bài bình luận “Vùng Vịnh-Thanh gươm chiến tranh đã rút ra khỏi vỏ” của tôi, dư luận rất sôi nổi, trong đó có cả những ý kiến cho rằng tác giả nhận định thế là “hơi liều” vì nếu chiến tranh không xảy ra thì sao. Nhưng, một ngày sau đó, ngày 17-1-1991, chiến tranh Vùng Vịnh đã nổ ra. Ngày đầu chiến tranh, công việc rất gấp gáp. Đưa tin như thế nào, có bình luận hay không? Chúng tôi nhận thấy không thể không viết. Tôi được lệnh đưa bài bình luận vào xin ý kiến trực tiếp Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Cùng đi với tôi có phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam, người có nhiệm vụ đưa bài bình luận về Đài để kịp phát ngay trong đêm. Bài bình luận “Một thảm họa của thế giới” được thông qua rất nhanh.

Khi tôi chưa về đến tòa soạn thì đã nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đọc trước khi báo đăng. Trong cuộc chiến 42 ngày đó, dưới sự chỉ đạo và động viên của Tổng biên tập Phan Khắc Hải, Phòng biên tập Thời sự quốc tế do anh Trần Nhung làm Trưởng phòng đã nỗ lực vượt bậc, ngoài việc bảo đảm kịp thời thông tin trên báo hằng ngày, đã xuất bản được 4 số đặc san về chiến tranh Vùng Vịnh, gây tiếng vang, in không kịp để bán, riêng tôi đã viết 14 bài bình luận. Loạt bài này sau đó đã vinh dự được trao Giải báo chí toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1991. Đó là niềm vui lớn đầu tiên trong đời cầm bút của tôi, là thành công của Phòng biên tập Thời sự quốc tế nói riêng và Báo QĐND nói chung.

Năm 1991 là năm đặc biệt lạ lùng trong nền chính trị thế giới. Đầu năm nổ ra cuộc chiến Vùng Vịnh, mùa thu năm đó, ngày 19-8, lại nổ ra cuộc chính biến, dẫn tới sự sụp đổ vô tiền khoáng hậu của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Đây là lúc công việc viết bình luận rất khó khăn và đầy thách thức. Để an toàn, có thể đóng bút, ngồi chờ chỉ đạo. Tôi đọc được những suy nghĩ đầy trăn trở của các anh lãnh đạo Báo lúc duyệt các bài bình luận. Không phải không có những e dè, lo ngại. Nhưng rồi, sau khi cân nhắc kỹ, Tổng biên tập đã duyệt cho đăng tất cả những bài tôi viết về “trận động đất chính trị” này với những tác động, hệ lụy ghê gớm của nó, trong đó có các bài: “Tâm lý xã hội và trò chơi chính trị’, "Những diện mạo chính trị đáng ngờ”, “Những phát đạn nã vào quá khứ”, “Những đồng đô la ranh mãnh”, “Ba ngày đổi khác Liên Xô”, “Bước trầm của lịch sử”, “Số phận ngôi nhà SNG đang xây dở”, “Trận đấu quyền lực đầy dự cảm thời cuộc”...

Tôi nhớ rõ sự kiện ngày 12-7-1995, Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam; ở Washington, Tổng thống Bill Clinton ra tuyên bố, ở Hà Nội, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc bài phát biểu, hai nước cách nhau nửa vòng trái đất, lệch nhau 12 giờ. Tôi và anh Trần Nhung gần như thức trắng đêm, chờ cấp trên duyệt bài xã luận, xong việc, báo lên khuôn, về nhà nằm, tôi không sao ngủ được. Bao nhiêu suy nghĩ tôi đã không thể hiện được trong bài xã luận. Sáng ra, tôi gặp Tổng biên tập đề nghị viết tiếp bài bình luận, anh đồng ý và còn động viên tôi: “Quang Lợi viết ngay đi cho kịp”. Thế là bài bình luận “Bài học bổ ích cho tương lai” được Báo QĐND đăng sau đó, phân tích đa chiều hơn, thỏa đáng hơn nội dung tuyên bố bình thường hóa của Tổng thống Mỹ. Sau đó, anh còn duyệt cho đăng bài “Những mạch ngầm thẩm thấu êm dịu” của tôi về chiến lược “chuyển hóa Việt Nam” sau bình thường hóa. 

Mỗi buổi sáng, cầm tờ báo trên tay, đọc lại bài bình luận viết đêm hôm trước, tôi thầm cảm ơn các anh lãnh đạo đã tin cậy tôi, cho tôi được viết, được góp phần lý giải những điều bạn đọc mong chờ về những sự biến dữ dội, vô cùng phức tạp trong đời sống quốc tế. 

 Báo QĐND là một tờ báo giàu tính chiến đấu nhưng vẫn đậm chất nhân văn. Vì có tính linh hoạt, sự mới mẻ, sự năng động nên luôn luôn khơi gợi được sức sáng tạo và khích lệ được tinh thần cống hiến của các nhà báo. Tôi nghiệm ra rằng, vấn đề gì cũng có thể viết được, miễn là viết như thế nào thôi. Thời chưa có máy vi tính, có lúc bài cần đăng gấp đến mức tôi viết xong được trang nào thì đưa cho chị đánh máy trang ấy. Có những bài bình luận, đến lúc viết xong, đứng dậy thì người như mất trọng lượng, chân bước đi chơi vơi, nhưng lòng đầy phấn chấn. Viết xong bài báo, tôi chờ cho đến khi trình bày xong, báo lên khuôn thì mới ra về. Đêm về nằm ngủ lại mơ thấy hàng vạn tờ báo có bài bình luận đó của mình chạy rào rào trên máy in. Có hôm bài chuyển đi nhà in rồi nhưng phát hiện ra có câu chữ gì đó chưa chính xác, tôi choàng dậy đề nghị sửa ngay.

leftcenterrightdel

Nhà báo Hồ Quang Lợi trong một lần được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu 

Tôi luôn tâm niệm, trước hết và sau cùng, báo chí sinh ra để làm rõ sự thật, bảo vệ lẽ phải. Có những cái giống như sự thật nhưng nó đánh lừa chúng ta. Muốn bảo vệ lẽ phải thì phải tìm đúng bản chất của sự thật. Tôi nhớ, năm 2002, tôi và anh Lê Liên tiếp cận với câu chuyện bi hùng trong hang Khì (sau này còn được gọi là hang Tổ 4 hoặc hang Hỏa Tiễn), ở Hoàng Mai, Nghệ An. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, năm 1966, một quả tên lửa Mỹ đã bắn trúng miệng hang Khì-nơi trú ẩn của 33 thanh niên xung phong và công nhân ngành đường sắt. Chỉ một người còn sống, 32 người hy sinh nhưng 31/32 người không được công nhận là liệt sĩ. Các cấp giải thích rằng họ đã rút vào trong hang đá rồi hy sinh nghĩa là họ gặp tai nạn, nên họ không được công nhận là liệt sĩ.

Với khí chất của một tờ báo chiến đấu cả trong chiến tranh cũng như trong thời bình, Báo QĐND đã đăng không chỉ một bài mà nhiều bài của tôi và anh Lê Liên với tinh thần quyết làm rõ sự thật, rằng đây là những người hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Báo QĐND đã đấu tranh không phải chỉ trên mặt báo mà còn trong các cuộc họp với các cơ quan chức năng. Qua một thời gian với nhiều số báo, Báo QĐND cùng nhiều cơ quan báo chí vào cuộc, cuối cùng, sự thật được làm rõ, lẽ phải đã chiến thắng. Sau 36 năm, 32 con người hy sinh một cách anh dũng trong khi làm nhiệm vụ ở tọa độ lửa Hoàng Mai đều được công nhận là liệt sĩ.

Tôi may mắn được làm việc 10 năm bên cạnh Thiếu tướng, Tổng biên tập Trần Công Mân. Ông thường gạt bỏ những gì rườm rà để mau chóng đi tới bản chất. Trong ông ẩn chứa một năng lực trí tuệ, một năng lực ứng phó đầy bản lĩnh mà đôi khi trong phức tạp, cam go, rối rắm của tình thế, được ông chỉ bảo bằng những lời ngắn gọn và bình dị, bỗng thấy mở ra một lối đi sáng rõ. Trong ông cũng ẩn chứa một khả năng thuyết phục, lôi cuốn người khác bằng phong thái điềm tĩnh, tư chất trầm sâu của một người đã đạt tới một độ chín của tư duy, độ vững vàng của bản lĩnh. Khả năng thuyết phục đó thường không tạo ra một thứ lửa hừng hực mà là một sức cảm hóa len lỏi, lan tỏa, hòa quyện với tốc độ nhiều khi không ý thức được, nhưng cứ bồi đắp lâu dần thành một khát vọng vươn tới.

Tôi còn nhớ, một buổi chiều đầu thu năm 1989, khi những hàng cây trên phố Phan Đình Phùng xao xác lá vàng bay trong tiết heo may, ông cho gọi nhóm viết chuyên luận gồm Đại tá Phan Hiền, Đại tá Tạ Duy Đức, anh Trần Nhung và tôi lên hội ý. Tôi cảm thấy giọng của ông trầm xuống vì một nỗi lo lắng về thời cuộc. Hình như ngay từ hôm đó, ông đã linh cảm thấy một biến động ghê gớm sẽ diễn ra trong nền chính trị thế giới. Theo lệnh của ông, mỗi chúng tôi viết một bài chuyên luận nhằm phân tích, dự báo và định hướng tư tưởng trước nguy cơ một cuộc đảo lộn lớn. Loạt bài chuyên luận đó của Báo QĐND đã gây tiếng vang lớn trong dư luận xã hội. Lần đầu tiên trên báo chí ta có những bài chính luận phân tích sâu sắc chiến lược "diễn biến hòa bình". Tôi hiểu Tổng biên tập Trần Công Mân là linh hồn của bài chính luận "Cuộc chiến tranh có tên gọi hòa bình" của tôi. Đó là bài viết đầu tiên đánh dấu sự trưởng thành bước đầu của bản thân tôi trong công việc viết bình luận.

Gắn bó với Báo QĐND gần 30 năm, đến một ngày, tôi phải đối diện với một quyết định khó khăn. Thời điểm đó, Báo Hà Nội mới cần một tổng biên tập, tôi được mời về đảm nhận khi đang là Phó tổng biên tập Báo QĐND. Điều làm cho tôi cảm thấy day dứt nhất chính là việc phải rời xa tòa soạn số 7 Phan Đình Phùng, nơi tôi đã được rèn luyện và trưởng thành. Tôi mang ơn Quân đội, mang ơn Báo QĐND, mang ơn những người lãnh đạo, đồng nghiệp ở đây quá nhiều đến mức tôi không muốn rời xa.

Tôi nhớ đêm cuối cùng làm việc ở Báo QĐND với trách nhiệm là Phó tổng biên tập trực xuất bản, tôi trở về phòng làm việc nhìn bộ quân phục treo trên mắc áo. Thật sự đó là thời khắc không thể nào quên. Chỉ nghĩ tới việc ngày mai, mình sẽ không còn được mặc bộ quân phục nữa, không còn được tới ngôi nhà 7 Phan Đình Phùng thân thương này nữa, lúc đó tự nhiên nước mắt trào ra. Xúc động, nghẹn ngào... Từ Báo Hà Nội mới, tôi tiếp tục được giao đảm trách nhiệm vụ Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội và sau đó là Phó chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam. Tất cả đều bắt đầu từ Báo QĐND.

Phía trên măng sét Báo QĐND có 5 chữ “Vì nhân dân phục vụ”. Thân thuộc mà thiêng liêng vô cùng. Đó là lý tưởng cầm bút của người làm báo Báo QĐND. Ngòi bút chiến sĩ! Trái tim chiến sĩ! Trái tim cùng nhịp đập với nhân dân!

Tôi luôn tâm niệm như vậy và ở cương vị nào cũng luôn cố gắng làm như vậy.

HỒ QUANG LỢI