Nhà thơ Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh, sinh năm 1942 ở  huyện Quảng Ninh-Quảng Bình. Bố anh từng vừa làm thầy trụ trì ở các chùa Phú Ninh (Đồng Hới), Vĩnh Tuy (huyện Quảng Ninh) vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi  và “thẳng như ruột ngựa”. Đúng hai mươi tuổi, anh nhập ngũ trở thành một chàng lính thủy phong sương và lãng mạn. Anh đã từng theo tàu chiến Hải quân đi tiếp tế cho bộ đội ở các đảo Cồn Cỏ, Bái Tử Long, Bạch Long Vĩ... trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và từng có mặt trên tàu HQ.171 tham gia sự kiện đánh thắng trận đầu của Bộ đội Hải quân vào ngày 5-8-1965 ở quân cảng sông Gianh...

Nhà thơ Vĩnh Nguyên

Khi đang là học sinh Trường Đào Duy Từ (Đồng Hới), Vĩnh Nguyên đã say mê đọc sách. Ở trên tàu chiến, những lúc rảnh rỗi là anh cầm lấy sách và tập sáng tác thơ văn. Xuất ngũ, Vĩnh Nguyên xin về  Hội Văn nghệ Quảng Bình rồi được chọn đi học Trường Viết văn Nguyễn Du (khóa 7). Từ năm 1983 đến năm 1992 anh làm phóng viên, biên tập ở Tạp chí Sông Hương, sau đó chuyển qua công tác ở Hội Văn nghệ Thừa Thiên-Huế đến khi nghỉ hưu. Cho đến nay, sau hơn ba mươi năm cầm bút, anh đã xuất bản 4 tập văn xuôi, 1 tập trường ca,  6 tập thơ. Anh cũng đã được tặng Giải thưởng văn học Cố Đô (1990-1994), giải thưởng Báo Văn nghệ (1984) và được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997.

Vĩnh Nguyên nói rằng, viết văn cũng như tình yêu, phải trung thực, đam mê và quyết liệt. Anh là một trong những cây bút viết bút ký hết sức năng động. Anh ra ngư trường sông Gianh “Theo thuyền đánh cá mập”. Anh ngược dòng Kiến Giang, vào tận rừng sâu, núi thẳm cùng với “Vua trầm”. Anh lang thang trên phá Tam Giang, anh lên Bạch Mã, anh về Thủy Dương-quê hương của nhà thơ Phùng Quán... Gần như trên đất Bình-Trị-Thiên, ở đâu cũng có dấu chân anh. Bút ký của Vĩnh Nguyên  bề bộn chất hiện thực và chứa nhiều ẩn ức. Điều đó được thể hiện khá rõ trong thiên bút ký Ngày Valentine tôi dông xe ra Bắc mới đây của anh.  Anh xuất hành ra Bắc bằng xe máy. Đã ngoài sáu mươi mà đi xe máy đường trường như anh, kể cũng hơi liều. Anh nói đi như thế mới đến được nhiều nơi, ghé được nhiều chỗ. Thăm Thanh Hóa, anh còn lên cả Vườn quốc gia Bến En, băng qua Cẩm Thủy... Chuyến đi đặc biệt ấy, anh mắt thấy tai nghe bao nhiêu chuyện, bao nhiêu sự việc hiện tượng, gặp gỡ với bao nhiêu hạng người, biết được bao nhiêu tâm tư, nguyện vọng... Điều làm anh day dứt nhất là Quyết định 327 của Chính phủ. Chủ trương “phủ xanh đồi trọc” thì đúng nhưng thực hiện thì quá nhiều bất cập. Có một số nơi không chỉ “phủ xanh đồi trọc” mà còn đấu thầu cả rừng nguyên sinh trong thời hạn từ bốn mươi đến năm mươi năm. Anh xót xa trước nạn đốt phá rừng chỉ vì nguồn lợi trước mắt. Anh thẳng thắn phê phán những việc làm sai trái ấy…

Thời gian đầu nhập tỉnh Bình-Trị-Thiên, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rủ anh cùng ở chung trong căn hộ trên đường Nguyễn Trường Tộ. Trong thiên hồi ký Nhớ Trịnh Công Sơn, anh ghi lại một cách trung thực, chi tiết những chuyến đi của Trịnh, sinh hoạt hằng ngày của Trịnh. Gần gũi Trịnh Công Sơn, Vĩnh Nguyên hết sức cảm phục và yêu mến người nhạc sĩ tài hoa này. Vì thế khi nghe tin Trịnh Công Sơn mất, nhà thơ thảng thốt gọi tên nhạc sĩ: Hỡi trời thẳm tôi dâng ly tiễn biệt / Nhớ anh Sơn chiếc răng khểnh đang cười / Với ly rượu lung linh trên tay khi sáng tác / “Một cõi đi về...” tôi òa vỡ... Sơn ơi ! Phùng Quán cũng vì mến cái tính trung thực, thẳng thắn của anh nên  đã ân cần dẫn anh đi thăm các bạn thơ ở Hà Nội.  Khi nghe tin nhà thơ  Phùng Quán qua đời, anh viết những câu thơ khá xúc động: Thôi một đời cơ cực / Thôi một đời rong chơi…

Theo Vĩnh Nguyên, làm thơ còn khó hơn viết văn, “dù tư duy đến mấy, không có ẩn ức không viết được. Nhưng nếu cố viết thì thơ ấy nên vứt vào sọt rác”. Đọc hàng trăm bài thơ của anh in trong các tập: Mây đá nhớ nhau, Tình yêu đâu có muộn màng, Cửa sổ nhìn ra, Bài hát dòng suối mướp, Nết... tôi thấy những bài anh viết do những ẩn ức nào đó đều có những câu, những đoạn khá hay. Ngồi trên bãi biển Nha Trang, nếu không có sự ẩn ức bởi việc “em quay gót, rượu không buồn rót”, chắc gì anh đã viết được những câu thơ mà bạn bè thường nhắc nhở trong các cuộc vui: Tôi vùi chai rượu xuống lòng đêm / tạm biệt Nha Trang với câu thề trên cát ướt / hẹn ngày gặp lại bới chai lên… Những bài thơ Vô đề của Vĩnh Nguyên đều là những bài thơ “có vấn đề”, nó hàm chứa những ẩn ức của con tim đã từng nhiều phen “tứa máu”. Cũng chính vì ẩn ức đối với nỗi vất vả của những người dân lao động anh mới viết được những bài thơ đầy cảm thông như: Người đàn bà lặn cát sông Hương, Chữ ký của con, Thưa mẹ... Anh chua chát nhận ra rằng: Đời ta rồi thua cả loài cỏ dại / thua cả đám liu chiu dế trũi, dế mèn / là khi ta nằm dài đáy huyệt / đám liu chiu cỏ dại mọc đè lên (Vô đề 3). Trong Bài hát của con dế, anh cứ láy đi láy lại: Anh là con dế dại khờ lũ nhỏ bắt bỏ bao diêm... Mặc dù có nhiều ẩn ức song Vĩnh Nguyên vẫn lạc quan, yêu đời. Xây được ngôi nhà mới bên bờ sông Nhật Lệ (Đồng Hới), anh nhắn với bạn bè: Tôi chôn hũ rượu - bùa - mê / bạn về tôi chuốc thỏa thuê, bạn à! Cho dù thủ phận “thua cả loài cỏ dại”, anh vẫn tự an ủi mình: Ta cứ tin như thế vững lòng hơn / để bàn tay với bàn tay lại nắm / và làn môi tìm tới nụ môi hôn (Vô đề 3). Vốn từng là một thủy thủ sóng gió nên anh không dễ dàng đầu hàng số phận: Ta như con thuyền gió nước triều dâng/ người cầm lái mang con tim tứa máu/ kéo buồm lên, vững lái kéo buồm lên / quyết vượt sóng hay để thuyền vỡ nát ? (Vô đề 2).

Đọc Vĩnh Nguyên, nhiều người có chung nhận xét cả thơ lẫn văn của anh đều xù xì, góc cạnh. Anh có lối viết “thẳng như ruột ngựa” không màu mè, hoa mỹ. Nhưng chính nhờ cái xù xì, góc cạnh, “thẳng như ruột ngựa” ấy mà góp phần làm nên nét riêng của anh. Đã ngoài sáu mươi  nhưng anh vẫn thích rong ruổi. Anh sẵn sàng tiếp nhận bốn mùa mưa gió và vẫn tiếp tục làm con dế dại khờ với những nỗi niềm ẩn ức, hát mãi bài ca cuộc đời cho đến khi xác khô lẫn khuất nơi bờ cỏ em…

MAI VĂN HOAN