1. Đất nước giành lại độc lập sau gần một thế kỷ nô lệ. Khi chính quyền non trẻ còn đang bộn bề lo toan, vừa củng cố, đối phó với “giặc đói”, “giặc dốt”, vừa khôn khéo chống giặc ngoại xâm bủa vây thì bản Hiến pháp năm 1946 ra đời.
Bản Hiến pháp ấy gồm 7 chương, 70 điều, lời văn, ngôn ngữ rất ngắn gọn, dung dị, gần gũi nhưng hàm chứa những điều cốt lõi của một triết lý lập quốc chứ không phải ngôn từ pháp lý sơ cứng: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1).
    |
 |
Cử tri ngoại thành Hà Nội bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa I, ngày 6-1-1946. Ảnh tư liệu |
Nghiên cứu giá trị văn hóa đặc trưng, đặc sắc của bản Hiến pháp năm 1946, điều đầu tiên dễ nhận thấy nhất đó là tôn trọng quyền làm người, quyền công dân của nhà nước kiểu mới. Đặc trưng ấy được kế thừa từ truyền thống văn hóa “dĩ dân vi bản” mà chưa có một nhà nước nào ở khu vực Đông Nam Á đề cập đầy đủ như vậy. Ví dụ, Hiến pháp Indonesia công bố năm 1945 quy định quyền, nghĩa vụ công dân có giới hạn. Trong đó quy định người dân được đi học chung chung hoặc không quy định về bình đẳng nam nữ. Nhưng những vấn đề này lại được Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam quy định rất cụ thể.
Truyền thống văn hóa "dĩ dân vi bản", coi trọng vai trò của nhân dân, lấy dân làm cơ sở cho sự phát triển của đất nước ở Việt Nam đã được các danh nhân đề cập và thực hiện, trong đó nổi bật là Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... Truyền thống ấy như mạch nước ngầm thấm sâu vào đất mẹ, vào văn hóa Việt và được Chủ tịch Hồ Chí Minh tích hợp để nuôi dưỡng, cụ thể hóa trong từng điều khoản của bản Hiến pháp. Những quy định về quyền bình đẳng nam nữ (Điều thứ 6) giúp ta thấy bóng dáng phụ nữ Việt Nam "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" từ thuở Bà Trưng, Bà Triệu hiện hình.
Trong bản Hiến pháp này, công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Đặc biệt, nếu công dân đủ các điều kiện về tuổi, biết chữ sẽ được ứng cử, bầu cử, được bãi miễn người mình bầu... Nhưng có lẽ điều tôi tâm đắc nhất trong bản Hiến pháp này là quy định: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình” (Điều thứ 15). Trong hoàn cảnh quốc gia còn nghèo và còn bất ổn thì đây là quyết định có tầm nhìn xa và chính là gốc rễ để nước ta xóa nạn mù chữ, phát triển học tập toàn dân sau này.
2. Giá trị văn hóa tiếp theo mà Hiến pháp năm 1946 để lại cho hậu thế, đó là sự tiếp thu tinh hoa nhân loại hòa hợp với cốt cách Việt Nam. Bản Hiến pháp không phải là sự sao chép máy móc mà là sự chắt lọc tinh túy, như cách người thợ gốm Việt tiếp thu kỹ thuật nung men nhưng vẫn giữ được nét vẽ mang hồn dân tộc.
Hiến pháp năm 1946 là một minh chứng cho tinh thần khai phóng khi tiếp thu tư tưởng dân chủ phương Tây: “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp, “Tuyên ngôn Độc lập” của Mỹ, nhưng không rập khuôn. Các nhà soạn thảo đã đưa vào bản Hiến pháp những giá trị phổ quát của nhân loại, nhưng đặt trong bản sắc dân tộc. Tinh thần đó chính là biểu hiện mở cửa cho văn hóa Việt Nam hiện đại. Nếu văn hóa là sự lựa chọn những tinh hoa để làm giàu cho bản sắc thì Hiến pháp năm 1946 chính là một lựa chọn như thế.
Điều khoản về tự do ngôn luận, báo chí (Điều thứ 10) là sự tiếp thu từ “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp, sự kế thừa truyền thống "dân ngôn" của Nho giáo, nơi bậc minh quân phải biết lắng nghe tiếng nói của dân chúng. Quyền bầu cử phổ thông (Điều thứ 18) mang hơi thở dân chủ phương Tây, nhưng cách thực hiện lại phảng phất tinh thần "làng xã nghị luận" thuở xưa.
Trong lịch sử Việt Nam (tính đến năm 1945) chưa có một văn kiện pháp lý nào ra đời khẳng định quyền con người một cách rõ ràng và toàn diện như Hiến pháp năm 1946. Đây không chỉ là pháp luật mà còn là một quan niệm văn hóa: Coi con người là trung tâm, là giá trị tối thượng, là đích đến của mọi thiết chế chính trị. Ẩn sau những điều khoản pháp lý ấy là tinh thần nhân văn, vốn là cốt lõi của mọi nền văn hóa lớn trong nhân loại.
3. Một nét văn hóa khác cũng được khắc họa đậm nét trong Hiến pháp năm 1946, đó là tinh thần cộng đồng, tinh thần đoàn kết dân tộc.
Hiến pháp năm 1946 khẳng định sự bình đẳng tuyệt đối giữa các dân tộc trong lãnh thổ Việt Nam: “Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. Đó không chỉ là một nguyên tắc chính trị mà là sự tiếp nối truyền thống “đồng bào” của dân tộc ta, là truyền thống ăn sâu trong tâm thức người Việt, dù miền núi hay đồng bằng, dù người Kinh hay người Thượng đều cùng chung một bọc trăm trứng. Trong Hiến pháp ấy, ta thấy tỏa sáng một triết lý văn hóa: Sức mạnh của dân tộc không nằm ở một nhóm người mà nằm ở sự cộng hưởng của tất cả cộng đồng.
Như đã nói, Hiến pháp năm 1946 ra đời giữa hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, "ngàn cân treo sợi tóc". Nhưng dù bị bóng dáng chiến tranh phủ trên nền độc lập thì Nhà nước Việt Nam vẫn tự tin cho ra đời Hiến pháp để khẳng định quốc gia văn minh, bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới. Từ đó gửi đến thế giới một thông điệp: Việt Nam không chỉ là một dân tộc biết chiến đấu mà còn là một dân tộc biết sống, biết làm chủ, biết sáng tạo, biết làm bạn với nhân loại.
Gần 80 năm đã trôi qua, Hiến pháp năm 1946 vẫn tỏa sáng và là cốt lõi, linh hồn của các Hiến pháp: 1959, 1980, 1992 và 2013. Đặc biệt, kế thừa Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 quy định tách bạch rõ “quyền con người” và “quyền công dân”, trong đó quyền con người là phổ quát, còn quyền công dân gắn với quốc tịch Việt Nam. Hiến pháp 2013 đã khẳng định mạnh mẽ vai trò của Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, coi đây là nền tảng chính trị, pháp lý quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những quy định này đã giúp người Việt Nam có thêm động lực để cả dân tộc vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của phát triển thịnh vượng.
Tinh thần trong Hiến pháp năm 1946 dù đã qua gần 80 năm vẫn là một ngọn đuốc soi đường, một di sản văn hóa sống mãi trong ký ức, lịch sử dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, độc lập, tự do, phấn đấu vì công bằng, dân chủ, văn minh và thịnh vượng.
BẢO LINH