"Trời Thu xanh ngát, sáng Tuyên ngôn". Chữ “sáng” trong câu thơ không phải là danh từ chỉ thời gian, bởi trong thực tế thì Lễ Tuyên bố Độc lập không phải tổ chức vào buổi sáng. Chữ “sáng” ở đây là một tính từ chỉ phẩm chất minh triết và tầm vóc văn hóa của một văn kiện. “Sáng Tuyên ngôn” bởi bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trong Lễ Quốc khánh là văn kiện kết tinh những giá trị văn hóa của dân tộc và tinh hoa của thời đại, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, nước Việt Nam chính thức có tên trên bản đồ thế giới.
Một trong những bài học thắng lợi quan trọng nhất của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là Đảng ta đã huy động được sức mạnh to lớn của toàn dân tộc để chớp lấy thời cơ; trong đó có sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử, kết hợp với sức mạnh của thời đại để phát động khởi nghĩa vũ trang. Đồng thời, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện mang ý nghĩa nhân văn cao cả, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc cho toàn dân. Bản chất văn hóa của cuộc cách mạng được kiến giải mạch lạc trong bản Tuyên ngôn Độc lập, bằng viện dẫn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, như: Tinh thần yêu nước và ý chí xả thân cứu nước; truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm và lòng khoan dung, nhân ái; tình yêu hòa bình và tinh thần hòa hiếu, hòa giải...
Những giá trị văn hóa trên đây đều bắt nguồn từ khát vọng độc lập, tự do của một dân tộc suốt mấy nghìn năm dựng nước phải luôn luôn căng mình giữ nước. Bởi vậy, sau khi tuyên bố trước toàn thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”, bản Tuyên ngôn cũng khẳng định quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Lời khẳng định ấy là biểu hiện sinh động của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa yêu nước, một giá trị văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam được kế thừa và phát triển suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Bản Tuyên ngôn Độc lập vạch trần thủ đoạn của thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Đã vậy, chúng còn “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật” và từ chối việc Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật, “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Tuy vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn nêu rõ tinh thần nhân ái, khoan dung của dân tộc Việt Nam, giương cao ngọn cờ chính nghĩa và chính sách nhân đạo của Mặt trận Việt Minh: “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ”. Cách ứng xử văn minh ấy thể hiện tầm cao văn hóa và tinh thần hòa giải của dân tộc Việt Nam. Đó là lối hành xử thể hiện khát vọng hòa bình của một dân tộc phải trải qua trường kỳ kháng chiến để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; phải chịu đựng nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra...
Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ góp phần làm rạng rỡ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam mà còn góp phần làm cho nền văn hiến Việt Nam trở nên toả sáng và có giá trị lâu bền. Nội dung văn kiện là sự thống nhất giữa tư tưởng và những nỗ lực không mệt mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước; trong đấu tranh cách mạng và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Người. Từng câu chữ trong bản Tuyên ngôn thể hiện tầm tư duy khoa học sắc sảo, độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh. Nét độc đáo là sau khi tiếp nhận và viện dẫn những giá trị tinh hoa của thời đại về quyền con người được nêu trong hai bản Tuyên ngôn của hai cường quốc là Mỹ và Pháp, Người đã suy rộng ra là “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ngược thời gian 80 năm về trước thì đây là điều vô cùng mới mẻ. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ đầu tiên trên thế giới đã gắn vấn đề quyền con người với quyền dân tộc. Tư tưởng đó của Người phản ánh xu thế tất yếu của thời đại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển và tôn trọng luật pháp quốc tế. Theo đó, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện đóng góp quan trọng vào sự phát triển của tư tưởng nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc. Đây là áng hùng văn lập quốc vĩ đại, có giá trị cao về tư tưởng, lý luận và văn hóa vô cùng đặc sắc.
Với nội dung ngắn gọn, cô đúc nhiều tư tưởng thời đại, bản Tuyên ngôn Độc lập báo hiệu một thời đại mới-thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới. Đây không chỉ là văn kiện khai sinh nước Việt Nam mới, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Bởi khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã trở thành hiện thực.
Lại nhớ về Lễ Tuyên bố Độc lập 80 năm trước:
Trời bỗng xanh hơn, nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa!
("Theo chân Bác"-Tố Hữu)
80 năm kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đổi mới và hội nhập... dân tộc ta phải trải qua biết bao hy sinh, vượt qua biết bao trở ngại để thực hiện khát vọng độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Ngày nay, khát vọng lớn của dân tộc ta là phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là sự kế tục và cụ thể hóa ba yêu cầu: Độc lập-Tự do-Hạnh phúc gắn liền với Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ cộng hòa lúc khai sinh. Theo quy luật tự nhiên, dân có giàu thì nước mới mạnh, đi cùng với công bằng để đến với dân chủ và văn minh là hai mục tiêu lớn và bao trùm, mang tinh thần nhân loại. Hiện nay, Đảng ta chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; khẩn trương tháo gỡ những “điểm nghẽn” cản trở phát triển; chống lãng phí như chống tham nhũng; quyết liệt xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả... Có thể nói, đây là cuộc đổi mới lần thứ hai do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bối cảnh quốc tế và tinh thần thời đại đang mở ra cho dân tộc Việt Nam những cơ hội lịch sử, nhưng cũng đặt ra những thách thức vô cùng to lớn. Bài học “chớp thời cơ” của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nóng hổi giá trị. Kết quả của công cuộc phòng, chống tham nhũng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng thời gian qua, cùng những khởi động tích cực của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước, sắp xếp lại các đơn vị hành chính để tạo dư địa tiềm năng cho phát triển... đang tiếp thêm "năng lượng niềm tin" cho toàn xã hội. Đồng bào và đồng chí cả nước đồng tâm hiệp lực, xốc lại hành trang, phấn khởi và tự tin bước vào cuộc lên đường mới, thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
MAI NAM THẮNG