Thực ra, nếu lấy tiêu chí phản ánh hiện thực xã hội thì con người từ thời cổ đại đã phản ánh trên vách đá cuộc sống của mình rất chân thực và sinh động. Tất nhiên, khi đó họ vẽ, khắc trên đá là từ nhu cầu tự thân chứ chưa hề có khái niệm gì đến lý luận. Nếu cho rằng chỉ khi nào có lý luận, quan điểm đầy đủ về chủ nghĩa hiện thực thì mới được công nhận thì thực tế, lý luận về chủ nghĩa hiện thực đã có từ thế kỷ 18 bởi nhà triết học duy vật lỗi lạc Denis Diderot (1713-1784).

Theo Diderot, muốn tác phẩm của mình chân thực thì họa sĩ không được xa rời tự nhiên. Ông nói: “Cái chân, cái thiện, cái mỹ rất gần gũi nhau và cái đẹp chỉ là cái chân thực trong tình huống hiếm có và kỳ diệu”. Thời gian đầu, Diderot cho rằng nghệ sĩ phải vẽ giống hệt tự nhiên. Ông khen tranh của J.B. Chardin: “Xem tranh của Chardin, tôi chỉ việc giữ lại những con mắt tự nhiên ban cho tôi và sử dụng chúng cho tốt. Chai rượu, trái đào, chùm nho trong tranh tĩnh vật của Chardin như mời mọc mọi người hãy rót ra mà uống, cầm lấy mà ăn”. Như vậy, rõ ràng Chardin phải là họa sĩ hiện thực trước Gustave Courbet và các họa sĩ kể trên.

Tuy nhiên, cũng bởi những ý kiến như vậy, người ta kết luận chủ nghĩa hiện thực của Diderot là thứ chủ nghĩa hiện thực mô phỏng, chụp ảnh, tả thực vào một giai đoạn đã lỗi thời. Do đó, lý luận của ông không còn phù hợp và chẳng có ý nghĩa gì đối với thời đại nghệ thuật “sáng tạo” sau này. Theo Diderot: “Một bức chân dung phải vẽ giống cho tôi và vẽ đẹp cho hậu thế” thì các nhà lý luận sau này coi thành tích vẽ giống chỉ thoảng qua nhất thời, “thành tích của ngọn bút mới làm cho tác phẩm trở nên bất tử”.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một trào lưu văn học nghệ thuật mới-“chủ nghĩa hiện thực mới” xuất hiện ở Pháp, Italy, Nhật Bản, Ấn Độ chú trọng đến những sự kiện bình thường hằng ngày, những sinh hoạt gia đình của các tầng lớp dưới trong xã hội, sáng tạo hình thức nghệ thuật mới với những bút pháp “tả chân” đa dạng.

leftcenterrightdel

Bức tranh Ngày sinh của Marc Chagall, năm 1915, sơn dầu 80,5 x 99,5cm về chủ nghĩa hiện thực không bến bờ. 

Không dừng lại ở đó, khi những nghệ sĩ phản ánh hiện thực chân thực và phê phán các mặt xấu xa của nó, một khái niệm mới ra đời: Chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đến khi chủ nghĩa xã hội ra đời ở Nga đầu thế kỷ 20 thì phương pháp sáng tác mới trong văn học nghệ thuật cũng xuất hiện, đầu tiên ở Nga, sau tới nhiều nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) khác, trong đó có Việt Nam. Phương pháp sáng tác hiện thực XHCN mô tả cuộc sống dưới ánh sáng lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.

Khi giới lý luận ở các nước XHCN coi chủ nghĩa hiện thực XHCN như kim chỉ nam, cổ vũ các nghệ sĩ thâm nhập đời sống mọi mặt của xã hội để sáng tác thì quan điểm “chủ nghĩa hiện thực không bờ bến” ra đời với những lập luận rất sắc bén, khiến cả thế giới bất ngờ. Đó chính là quan điểm của Roger Garaudy, một Giáo sư, Tiến sĩ triết học từng tham gia phong trào kháng chiến và phong trào cộng sản Pháp. Ông còn được bầu trở thành đại biểu Quốc hội Pháp trong các năm 1946-1951. Năm 1956, ông được bầu vào Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp và giữ chức vụ này đến năm 1970. Các năm 1959-1962, ông vừa là Nghị sĩ, vừa là Phó chủ tịch Quốc hội.

Theo nhà phê bình nghệ thuật Ri-Bokep, vì Roger Garaudy là người theo Chủ nghĩa Mác nên tác phẩm “Chủ nghĩa hiện thực không bờ bến” của Roger Garaudy càng khiến thế giới bất ngờ và trở thành một bộ phận của cuộc bút chiến gay gắt về chủ nghĩa hiện thực. Giới mỹ thuật ở Pháp lập tức tung hô quan điểm này. Họ lập luận: Bức tranh Ngày sinh của Marc Chagall vẽ hai người bay trên không hôn nhau say đắm có hiện thực không? Tất nhiên là có. Vì khi hôn nhau họ có cảm giác lơ lửng, chân không chạm đất. Đó là cảm giác rất thực.

Khi một tờ báo hỏi ông: “Nên hiểu chủ nghĩa hiện thực không bờ bến như thế nào? Đó là con sông Seine không bờ bến? Là đại dương ngập nước mênh mông hoặc là một cái gì đó có phần ít lãng mạn hơn chăng?”, Garaudy trả lời: “Chủ nghĩa hiện thực không bờ bến có nghĩa là thứ chủ nghĩa hiện thực không nên chỉ xác định trên cơ sở và dưới ánh sáng của những tác phẩm mà đã từ lâu, chúng ta thừa biết thuộc về chủ nghĩa hiện thực, thậm chí nếu như những tác phẩm đó có giá trị hết sức đặc biệt đi nữa”.

Sau khi dẫn ra nhiều tác phẩm của Balzac, Stendhal, Flaubert, với tư cách là những ví dụ, Garaudy nói tiếp: “Trong sự nhận thức trước đây về chủ nghĩa hiện thực, người ta đã không dựa trên những hiện tượng của nền văn học đương đại. Điều gì sẽ xảy ra với Kapka nếu như ông ta không tương ứng với tiêu chuẩn trong chủ nghĩa hiện thực của Balzac? Khai trừ ông ta ra khỏi chủ nghĩa hiện thực ư? Nếu như chúng ta hiểu được vấn đề như vậy thì chủ nghĩa hiện thực sẽ được khám phá. Nó sẽ mở rộng cho những tìm tòi mới mẻ, cho mọi sự học tập và nghiên cứu. Và vì vậy mà nó sẽ không bờ bến”.

Bình luận về quan điểm trên của Garaudy, nhà phê bình Ri-Bokep cho rằng: “Con người cũng như dòng sông, đời sống tinh thần của họ chảy theo hướng phát triển được xác định bởi những truyền thống, bằng sự giáo dục, bằng những thành kiến, quy phạm, luật lệ và quy luật của một xã hội nhất định. Nhưng cũng giống như mùa nước lũ, sau những trận mưa rào lớn hoặc trước những con đê, dòng sông sẽ tràn ra khỏi bờ. Con người trong những hoàn cảnh cực đoan nhất, trong những thời điểm căng thẳng của lịch sử, trong những tình huống khủng hoảng và xung đột sâu sắc của cuộc sống vẫn có đủ khả năng biểu hiện nghị lực, tinh thần to lớn của mình”.

Và thế là để tiếp thu truyền thống của Tolstoy và Dostoyevsky, nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa thế kỷ 20 đã học tập cách nắm bắt dòng thác của đời sống tinh thần, hiểu được và truyền đạt lại những dòng ý thức và mối liên hệ phức tạp, đôi khi gián tiếp của hai vị với cuộc sống. Chủ nghĩa hiện thực tìm được hệ thống phương tiện nghệ thuật súc tích, tiết kiệm để truyền lại sự phong phú trong cuộc sống của thế giới. Nền nghệ thuật đó tìm được con đường phát triển của con người và nhân loại, nó bảo vệ những lý tưởng nhân đạo chủ nghĩa, xác nhận con người là giá trị cao nhất của thế giới.   

Còn tại thời điểm đầu những năm 20 của thế kỷ này, nếu là một họa sĩ, một nhà điêu khắc, một nhà kiến trúc sẽ vẽ tranh, làm tượng vì cái gì? Và làm như thế nào để cuộc sống của mình có ý nghĩa, có giá trị với mọi người? Nếu là nhà phê bình, có khẳng định là dù vẽ theo phong cách cực thực hay siêu thực, dù vẽ ấn tượng hay phong cách hoạt hình, dù là nghệ thuật đại chúng hay nghệ thuật số, dù là chủ nghĩa hiện thực không bờ bến hay gì gì đi nữa cũng chỉ là phương pháp thể hiện, sự tìm tòi, bứt phá của các họa sĩ trong quá trình định hình lối đi, cũng là lối thoát cho họ trong môi trường, xã hội hiện đại đang thay đổi quá nhanh mà thôi.

Trong quá trình tìm tòi đó, có người tìm ra con đường của mình, có người bế tắc, âu cũng là chuyện bình thường. Nhà phê bình nghệ thuật Claire George khi thăm bảo tàng mỹ thuật hiện đại Tate Modern ở Luân Đôn đã phải thốt lên “chẳng hiểu các họa sĩ vẽ gì” và nhận xét: “Các tác phẩm của họ chẳng có gì mới lạ, cũng chẳng khéo tay, chẳng đẹp nữa. Nó khiến tôi phân vân tự hỏi, phải chăng mỹ thuật hiện đại đã mất phương hướng phát triển?”. Claire George còn tự hỏi “họ treo các dây da lòng thòng từ trên trần nhà xuống, chất gạch thành đống trên sàn phòng trưng bày để làm gì? Liệu làm thế họ có được mọi người ghi nhớ?”.

Điều căn bản nhất chúng ta cần không quên là nghệ thuật cũng có vai trò chính trị, vai trò văn hóa-giáo dục, vai trò kinh tế và cả vai trò giải trí, vai trò lịch sử. Hãy lấy cái “thước đo” đó để áp vào thực tiễn sáng tác xem những tác phẩm ấy chúng có tác dụng gì tốt, bồi bổ cho tâm hồn, nhân cách của ta nói riêng không? Có tác dụng xây dựng nhân cách con người, lòng tự tôn và trách nhiệm xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội tiến bộ nói chung không? Đó mới là điều quan trọng. Nếu không, cái mà ai đó gọi là “nghệ thuật” thực chất chỉ là những sản phẩm nhảm nhí, rác rưởi của nghệ thuật và chúng sẽ rất nhanh chóng bị lịch sử quên lãng.

THANH HƯƠNG