Tôi may mắn gặp lại Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan trong những ngày tháng 3 lịch sử, được nghe ông kể lại ký ức về những người bạn trong biên đội đã cùng mình làm nên chiến thắng trận đầu của Không quân Việt Nam…

Ông hỏi tôi: "Cháu có thấy những cái tên trong biên đội của ông đều giống tên con gái và giống tên của những loài hoa?"

 Nói rồi, ông đọc lại họ, tên từng người tựa như điểm danh: Phạm Ngọc Lan, Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ, Trần Minh Phương. Ông bảo, tuy tên có vẻ hoa lá "yếu đuối" nhưng bốn người cùng sinh năm Giáp Tuất, cả bốn đều trung thành, dũng mãnh, mắt tinh, tai thính, cứ như sinh ra để làm phi công vậy.

Nhớ lại cảm giác của mình khi xuất kích trận đầu, Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan sôi nổi: Đã quen mắt với màu trắng bạc và dáng hình thon thả của những chiếc Mig - 17, khi nhìn thấy hình thù gớm ghiếc của những chiếc máy bay Mỹ, lòng căm thù và ý chí quyết tâm tiêu diệt càng bốc cao ngùn ngụt. Thú thực, tuy đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng dưới mặt đất, khi lên trời, anh em chúng tôi không khỏi không một chút bỡ ngỡ, song đều được bên nhau bay trong đội hình mà cả bốn đều như một nên mỗi chúng tôi thật sự vững tâm. Riêng tôi, khi chuẩn bị công kích, nghe giọng ông Quỳ ấm áp ở bên: "Tôi đang ở sau anh", tôi thấy yên tâm rất nhiều. Bên cạnh kỹ thuật cá nhân, sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng và sáng tạo trong công kích và yểm trợ đã giúp chúng tôi làm nên điều kỳ diệu. Bây giờ, nhiều lúc nghĩ lại, mới thấy ngay trận đầu lập công, tinh thần của 16 chữ vàng truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam: "Trung thành vô hạn, tấn công kiên quyết, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể" đã sáng lên trong mỗi người lính chúng tôi...

Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan giữa đời thường hôm nay.

Sau chiến thắng trận đầu oanh liệt ấy, các ông đều được mến mộ và được đi tham dự nhiều buổi giao lưu. Chính các ông cũng trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tác văn học và ca khúc. Ông Lan nhớ lại lời cuối của bài hát "Phi đội ta xuất kích" của nghệ sĩ Tường Vy: "...Phi đội ta xuất kích, ra đi là mang chiến thắng trở về..." và bật mí: Chính tác giả bài hát đã lấy câu này từ bài bích báo của ông Quỳ. Ngày đó, ông Quỳ cũng như mỗi chúng tôi đều tâm niệm: Khi Tổ quốc cần, sẵn sàng hy sinh cả tuổi thanh xuân, song không được đánh ẩu, không được đánh bừa, đánh giữ mình để chiến đấu được lâu dài. Có như thế mới càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, đã xuất kích là phải lập công...

Những con người đã làm nên điều kỳ diệu ở đất nước Bác Hồ ngày ấy là bốn chàng trai chưa chạm tuổi 30. Gặp nhau ở lớp ôn văn hóa tại Kiến An, Hải Phòng, sau đó được đi học lái máy bay tại Trung Quốc. Tất cả đều chưa vợ, mỗi người một tính. Phạm Ngọc Lan vui vẻ, chan hòa; Phan Văn Túc hào hoa, điềm tĩnh, tế nhị; Hồ Văn Quỳ chất phác, thật thà; Trần Minh Phương xởi lởi, lém lỉnh; nhưng tất cả đều hòa hợp, đoàn kết, thương mến nhau như anh em vậy. Có lúc nóng tính với nhau trên sân bóng, ở nhà tắm, khi những xô nước đã giội hết cả bực dọc thì sau đó tất cả lại mát mẻ, hài hòa. Trong cuộc sống, dường như cái gì cũng là của chung, từ những bức thư, những niềm vui đến nỗi buồn nho nhỏ.

Ông Phạm Ngọc Lan còn nhớ rất rõ cái cảm giác sung sướng, hồi hộp của mình khi được đại diện đơn vị đứng lên tổ chức hôn lễ cho người đồng đội Phan Văn Túc và cô sinh viên Trường đại học Nông - Lâm tên là Tuyết. Đám cưới thời chiến được tổ chức rất đơn sơ. Chủ hôn là một chàng phi công chưa vợ, tuy còn rất trẻ nhưng đã làm tốt trọng trách của một "MC" vốn có khiếu nói và khả năng văn hóa, văn nghệ. Tình yêu của chàng phi công đẹp trai, phong độ Phan Văn Túc và cô sinh viên đã nhanh chóng kết trái, để trước khi hy sinh, Phan Văn Túc kịp để lại cho đời hai người con trai.

Chia sẻ với nhau trong cuộc sống và chia lửa với nhau qua từng trận không chiến, Lan, Túc, Quỳ, Phương đã gắn bó với nhau như người một nhà. Khi nghe tin phi công Phan Văn Túc và Trần Minh Phương hy sinh, ông Lan và ông Quỳ đều thấy đau xót như mất đi những người ruột thịt. Giờ đây, biên đội từng làm rạng danh cho Không quân nhân dân Việt Nam chỉ còn lại ông Lan và ông Quỳ. Ông Lan và ông Quỳ sau giải phóng miền Nam lại cùng công tác tại Đoàn B70; một là Tư lệnh, một là Phó tư lệnh sư đoàn. Đã chiến đấu cùng nhau nên họ hiểu nhau và phối hợp rất ăn ý. Bây giờ, rời quân ngũ về với đời thường, con cái đều phương trưởng, thành đạt, cả hai vẫn thường xuyên gặp gỡ nhau để cùng đến với những đồng đội đã từng một thời vào sinh ra tử.

Bài và ảnh: Hồng Linh