Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trước đây có nhiều vùng đất cầm trâu nổi tiếng, trong đó có cánh đồng phèn trũng rộng hàng chục nghìn héc-ta của huyện Thạnh Trị (Sóc Trăng), nơi hiện nay là vùng nguyên liệu lúa thơm ST25 vừa đoạt giải gạo ngon nhất thế giới năm 2019.

Ngày ấy, khi cây lúa mùa bắt đầu bám rễ xuống đồng cũng là lúc con nước lũ từ thượng nguồn (Tứ giác Long Xuyên) đổ về ngập trắng xóa, khởi đầu cho một mùa cầm trâu. Hàng nghìn con trâu từ khắp nơi theo chân mục đồng có mặt nơi biển nước mênh mông trên cánh đồng của huyện Thạnh Trị (nay là huyện Thạnh Trị và thị xã Ngã Năm) thỏa sức vẫy vùng và thưởng thức đọt cỏ năn tươi cho thỏa những tháng ngày cày, cộ cơ cực. Tiếng đập nước ầm ầm của bầy trâu, tiếng của những chú nghé gọi mẹ làm khuấy động không gian tĩnh lặng vốn có của đồng hoang. Cứ thế, mục đồng và trâu gắn bó với nhau giữa đồng năn bát ngát, cho đến khi nước rút hết ra biển, cây lúa mùa vào vụ thu hoạch thì chia tay, kết thúc một mùa cầm trâu.

Ngôi nhà của lão mục đồng Sáu Tâm (Dương Văn Tâm) ở ấp 21, xã Thạnh Tân, huyện Thạnh Trị nằm choi loi giữa đồng, bao bọc bởi thảm xanh của hàng dâm bụt và cây trái. Như thường lệ, ông ra đón chúng tôi với chuỗi cười sảng khoái và cởi trần, như thể muốn phô trương tấm thân vạm vỡ đầy đặn cơ bắp, vòng ngực to bè cùng đôi vai rộng, dù năm nay ông đã ngoài 80 tuổi. Ngôi nhà nhìn bên ngoài cũng đơn sơ, giản dị như con người lão, nhưng bên trong thì đã “hiện đại hóa” với đủ cả bếp gas, tủ lạnh, ti vi, dàn karaoke… Lão là một tay chơi theo cách của mình, tự bỏ tiền ra xây dựng một tụ điểm đờn ca tài tử ngay tại nhà với đầy đủ dàn âm thanh, nhạc cụ. Độc đáo hơn, lão còn thuê họa sĩ tái hiện quá khứ chăn trâu của lão bằng những khung tranh to đùng, tiền công trị giá gần trăm giạ lúa.

Biết chúng tôi ghé, trước sau gì cũng gợi chuyện cầm trâu của xứ sở này nhưng lão vẫn làm bộ làm tịch: “Cầm trâu nữa hả? Chuyện xưa rồi, không biết có còn nhớ để kể cho tụi bây nghe hay không”. Biết tánh lão hay đùa vậy thôi, chứ thật ra còn ai rành và nhớ chuyện cầm trâu hơn lão, bởi vậy lão mới được giới cầm trâu tôn vinh là “lão đại”. Cũng nhờ lão, chúng tôi mới được biết cùng với mùa len trâu (như trong truyện ngắn của “Ông già Nam Bộ” Sơn Nam, đã được chuyển thể thành phim), ĐBSCL còn có thêm mùa cầm trâu không kém phần hấp dẫn.

leftcenterrightdel
Đồng bằng sông Cửu Long trước đây có hai mùa len trâu và cầm trâu.

Lão nheo mắt hỏi: “Biết tại sao gọi là cầm trâu độn hông?”. Đúng là câu hỏi xoáy, vì lão thừa biết chúng tôi không có câu trả lời. Lão cười khoái chí giải thích: “Nghĩa là phải lấy đất hoặc cỏ năn độn cho cao hơn mặt nước thành cái gò để có chỗ cho trâu nghỉ ngơi sau một ngày kiếm ăn. Những cái độn của người cầm trâu được làm liền kề nhau, vừa tiện việc canh giữ, vừa có người tán dóc đỡ buồn”. Hỏi: “Hồi đó có khi nào trâu đi lạc hay bị trộm cướp mất trâu không bác?”. Lão nhướng cặp chân mày rậm rì, nói: “Cướp trâu hả, chuyện đó chỉ có trong phim thôi. Còn trâu lạc qua bầy khác thì có, nhưng mà chẳng ai tham đâu, chỉ cần coi dấu là biết trâu của ai rồi nhắn người đó qua lùa về liền. Dân chăn trâu học hành không được mấy chữ nhưng chuyện tình nghĩa thì đầy bụng, thương nhau còn không hết chứ làm gì có chuyện tham trâu, lùa trâu của nhau”. Ông trầm ngâm, rít thuốc rồi nói tiếp: “Nói thiệt chứ ngày xưa, hết mùa giữ trâu, thỉnh thoảng tụi tui còn lặn lội nhau qua tận Long Mỹ (Hậu Giang) hay xuống tới Bạc Liêu thăm nhau. Tình nghĩa của những người chăn trâu rất khó nói, bởi vậy mà sau này gặp nhau hay nhại mấy câu: “Người tha hương, ta cũng tha hương. Người nhạc sĩ, ta cũng là nhạc sĩ” trong bài ca cổ Tình nghệ sĩ của soạn giả Viễn Châu thành “Người chăn trâu, ta cũng thằng giữ trâu…”.

Tôi ngước nhìn cánh đồng ngập nước trắng xóa bên bờ kênh rồi nhìn lại cái dáng người cao lớn, vạm vỡ của lão mục đồng Sáu Tâm mà mường tượng ra hình ảnh của lão ngày xưa trước hàng trăm con trâu chắc cũng “oai phong” lắm. Giọng lão lại cất lên, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi: “Hằng năm, cứ đến mùa cấy lúa là dân giữ trâu tụi tui bắt đầu đi nhận trâu về chuẩn bị cho một mùa cầm trâu mới. Nhờ mình chăn giữ tốt, trâu mập mạp, khỏe mạnh nên cũng có nhiều người tự tìm đến nhờ mình giữ giúp, có năm đến hơn 50 đôi trâu chứ đâu có ít. Nói thiệt chứ lúc đó làm ruộng vài ba héc-ta lúa cũng không có tiền nhiều bằng tui giữ trâu đâu”. Thấy tôi có vẻ bán tín bán nghi, lão liền dẫn chứng: “Cứ một đôi trâu, mỗi mùa chủ trả cho 2 giạ lúa cộng thêm mỗi tháng 1 thùng gạo 20 ký nữa, ăn đâu có hết, còn làm lúa cao lắm cũng chưa tới 10 giạ/công. Cũng nhờ giữ trâu mà tui có dư, bung ra làm vốn khai hoang mới có đất đai để chia cho con cháu sau này”. Nói xong, lão lại cười khà khà rung rinh những bắp thịt đã nhão ra vì tuổi tác.

Có lẽ, ký ức về những tháng ngày chăn trâu đã ăn sâu vào tiềm thức của lão, cộng thêm cả đời sống gần gũi với thiên nhiên nên dù ở tuổi 80, lão vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn và nhớ vanh vách những người bạn một thời chăn trâu thuở nào. Lão kể: “Hồi đó, bên Thạnh Tân này có tui là giữ trâu nhiều nhất, còn bên Vĩnh Thành thì có ông Sáu Thùng, Vĩnh Lợi có ông Năm Diệp, Tuân Tức có ông Tô Sua, Tân Long có ông Bùi Văn Đực… nên tới mùa, đội quân cầm trâu tụ họp lại lên đến cả ngàn con trâu”. Lão lại quấn điếu thuốc gò to bằng ngón tay cái, bật lửa, rít một hơi dài rồi chầm chậm nhả khói khét lẹt, phủ đầy gương mặt đã hằn lên những nếp thời gian. Bỗng lão lại vỗ đùi cái đét làm tôi giật mình: “Quên, còn thằng lão tam Lô Xiêm bên Lâm Tân nữa, nó người Khmer, tính tình hiền lành, giữ trâu cũng rất giỏi nhờ kế thừa kinh nghiệm giữ trâu của ba nó là ông Lô Ben”.

So với lão mục đồng Sáu Tâm thì ông Lô Xiêm chỉ được xếp vào hàng “lão tam”, không chỉ vì tuổi tác mà còn vì thâm niên trong nghề giữ trâu. Chúng tôi tìm đến nhà ông từ sáng sớm nhưng người nhà cho hay, ông đã ra quán cà phê bên đầu cầu chơi bài tiến lên với đám thanh niên trong xóm. Kết thúc ván bài cuối, ông về nhứt nên cữ cà phê, thuốc lá sáng nay ông được đám thanh niên đãi miễn phí. Ông Lô Xiêm dẫn chúng tôi qua bên kia đường, đưa tay chỉ con kênh chạy dài hun hút rồi nói: “Con kênh này hồi trước tụi tui long trâu (dùng trâu kéo lúa) riết mà thành nên có tên là kênh Long Trâu. Sau này, Nhà nước cho đào rộng thêm để dẫn nước tưới tiêu và vận chuyển lúa sau thu hoạch. Ở đây có nhiều con kênh kiểu này lắm, vì xứ này nổi tiếng là xứ cầm trâu mà”.

Dứt câu, ông đột ngột rẽ xuống dưới chân cầu, chui vào ngôi miếu nhỏ thắp mấy nén nhang, lầm rầm khấn vái. Chúng tôi cũng tò mò bước xuống xem thì thấy trong miếu ngoài bát hương ra chỉ có một cục đá màu đen, nhẵn thín. Thấy vậy, lão liền giới thiệu: “Đây là miếu Ông Tà do ba tui và ông Sáu Thơm cất. Coi vậy chứ linh lắm à nghen. Hồi đó, cứ mỗi lần mất trâu là tui tới miếu vái Ông Tà, sau đó tìm được ngay”. Chúng tôi cũng là dân xứ miền Tây sông nước nên hiểu được phần nào về sự linh thiêng của miếu Ông Tà mà ông Lô Xiêm vừa kể, bởi giữa chốn cầm trâu hoang sơ ngày xưa, người ta thường tìm cho mình một chỗ để gởi gắm niềm tin.

Đang lúc cao hứng, ông Lô Xiêm kể tiếp: “Hồi đó, mấy món đồ nhậu như: Rắn, rùa, chim chóc các loại, ở đây gì cũng có, dạn khì, rất dễ bắt. Tui còn nhớ có lần bắt được con trăn nhốt đầy cái thùng phuy, đem ra chợ đổi lấy dầu lửa, gạo, muối, cả nhà ăn được mấy tháng trời”. Kể đến đây, bỗng nhiên giọng ông chùng xuống: “Mấy chục năm giữ trâu, tui thương nhứt là con trâu đực cổ tên Phnum (tiếng Khmer nghĩa là núi) của ông Lý Che bên Long Mỹ. Nó khôn lắm, nếu tới chiều mà tui chưa lại kịp, nó biết tự động ven (lùa) cả đàn về độn ngủ. Tui chỉ giữ nó được hai mùa thì chủ không mướn nữa. Nhớ nó, tui lội nước, băng đồng đi thăm được vài lần thì ông Lý Che bán nó cho người ta. Lần đó, tui về nhìn bầy trâu mà ngẩn ngơ, buồn bã cả tháng trời”.

Tuy không phải là dân giữ trâu nhưng ông Lê Thanh Nhi, Trưởng ban nhân dân ấp Tân Thắng có thâm niên sống ở xứ cầm trâu Thạnh Trị từ thập niên 1970 nên khá rành mọi chuyện. Ông Nhi kể: “Hồi xưa, nhà nào cũng có ít nhất một vài đôi trâu, vào mùa cầm trâu thì chỉ thấy trên đồng… toàn là trâu với nước. Từ khi có chương trình ngọt hóa bán đảo Cà Mau, vùng này mới bắt đầu được khai hoang dần dần, máy móc thay thế sức trâu và sức người nên nghề nuôi trâu, cầm trâu cũng dần biến mất”.

Câu chuyện cầm trâu dần chuyển sang chuyện khai hoang, ngọt hóa. Ông Lô Xiêm lại lên tiếng: “Lúc đó năn dữ lắm, dày mịt, cao huốt ngực luôn, còn phía dưới là lớp năn khô dày chừng nửa thước, lưỡi cày nhấn không xuống. Nếu cày bằng trâu thì phải cày đôi, mà mỗi ngày cũng chỉ cày được khoảng 2-3 công đất là cùng”. Cánh đồng trước mặt chúng tôi vẫn mênh mông nhưng bóng dáng cây năn và đàn trâu thì đã không còn, thay vào đó là những chiếc máy bơm chạy bằng dầu đang nhả khói đen sì để bơm nước từ trong đồng ra chuẩn bị cho mùa vụ gieo sạ mới. Không bao lâu nữa, cánh đồng này lại phủ một màu xanh của lúa, rồi chuyển sang màu vàng của “hạt ngọc đồng” cầm trâu cùng hương thơm thoang thoảng đặc trưng của giống lúa cho hạt gạo ngon nhất thế giới năm 2019. Cả một vùng cầm trâu rộng hàng chục nghìn héc-ta bây giờ được chia cắt thành thị xã Ngã Năm và huyện Thạnh Trị với hàng loạt xã nông thôn mới, nông thôn mới kiểu mẫu được ra đời, đẩy lùi quá khứ cầm trâu vào dĩ vãng…

Bài và ảnh: HỒNG ĐĂNG - AN XUYÊN